Thứ Sáu, 31 tháng 8, 2007

Huyền thoại về Cụm tình báo H.63 - phần 2

Kỳ 12: "Tướng Givral" – Lý tưởng và tài năng bậc thầy

(VietNamNet) - Từng có những phản ứng khác nhau kể từ năm 1978, khi những đồng nghiệp, và cả những người một thời ở "phía bên kia" biết được Phạm Xuân Ẩn, tên thật là Trần Văn Trung, thường gọi là Hai Trung, vốn là điệp viên tầm cỡ của Hà Nội: Giận dữ, bàn luận, phân tích... nhưng hơn tất thảy, là họ kính phục tài năng, con người và lý tưởng cống hiến của ông.
>> Kỳ 11: "Điệp viên tay mơ" thành người Việt trầm lặng>> Kỳ 10: "Mùi" của một điệp viên>> Kỳ 9: Chuyến đi của "con sói cô độc">> Huyền thoại về Cụm tình báo H.63 anh hùng - Phần 1>> Người giữ khoá bí mật ở Bộ Tổng tham mưu VNCH

Lý tưởng – "viên gạch" đầu tiên cho chiến thắng

Sống trong lòng địch hơn 20 năm, tiếp xúc với đủ mọi loại người, Hai Trung quá hiểu những người mà ông đang âm thầm chiến đấu. Ông hiểu tại sao nhiều người trong số họ cứ điên cuồng cầm súng theo Mỹ để tàn sát đồng bào. Có người vì bị ép, có người vì túng bấn, có người vì muốn nhanh chóng nắm quyền lực nhờ núp bóng quan thầy...
Tiền, tình, địa vị, cuộc sống giàu sang theo tiêu chuẩn Mỹ là những cạm bẫy khôn lường. Chính vì thế, người chiến sĩ tình báo luôn tự mình phải học.
Khi đã chui sâu leo cao rồi, ông không thể trực tiếp nghe giảng những bài học dễ thương như cái "đuôi con" tiểu tư sản thuở nào. Thay vào đó, ông tìm cách học lại từ chính những tài liệu của kẻ địch. Thế nên, không phải ngẫu nhiên mà sau khi giải phóng, ông vẫn còn lưu giữ cẩn thận một tài liệu nghiên cứu có ghi "Tam giác thắng", được viết vào năm 1968, không đề tên tác giả.
Với luận điểm "Tất cả mọi phương pháp để thắng cộng sản", người viết vạch ra những nguyên nhân khiến cho chế độ miền Nam Việt Nam không bao giờ được nhân dân ủng hộ, từ đó chỉ ra đường đi, nước bước để lên dây cót tinh thần cho binh sĩ, nhằm củng cố vị trí chính trị trong mắt người dân. Tuy nhiên, lập luận vòng vo, cuối cùng chính tác giả đó cũng phải thừa nhận rằng, cái chính thể VNCH thua cộng sản vì một lý do lớn nhất: Thiếu một chủ thuyết lý tưởng để đi tới cái đích cuối cùng.
Tháng 6/2007, khi Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết gặp mặt đông đảo Việt kiều và báo giới tại quận Cam (Mỹ), Nguyễn Cao Kỳ (cựu Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hoà, viên tướng râu kẽm một thời dẫn đầu phi đội máy bay của miền Nam Việt Nam ném bom Quảng Trị) đã phải tâm phục khẩu phục: "Tôi cũng từng tham vọng thống nhất đất nước. Nhưng hôm nay phải ngả mũ với những người đã làm được điều đó".
Còn Hai Trung – người anh hùng tình báo của Quân đội Nhân dân Việt Nam – đã khiến cả thế giới phải ngả mũ như thế nào?

Bậc thầy trong nghiệp: làm báo và tình báo

Sau khi chiến tranh kết thúc, Hà Nội công bố: Nhà báo lừng danh Phạm Xuân Ẩn là một điệp viên hạng nhất trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
Ngay lập tức, Murray Gart, thông tín viên trưởng của Time trong thời gian chiến tranh đã gào lên "Ông Ẩn là một kẻ đáng ghét. Tôi muốn giết ông ta!". Trong khi đó, nhiều đồng nghiệp khác của ông thì bàng hoàng. Lý trí bảo họ phải tin vì Phạm Xuân Ẩn thừa tài năng để làm được điều đó. Nhưng trong lòng họ lại muốn nghi, bởi họ không dám nghĩ rằng một chiến sĩ cộng sản lại sống có trái tim với tất cả mọi người như vậy.
Đã quá nhiều người biết và viết về ông với khả năng hài hước, luôn là trung tâm của mọi cuộc tranh luận nảy lửa về tin tức, về nghề nghiệp. Thú vị hơn nữa, mỗi khi kết thúc cuộc nói chuyện với ông, phóng viên nào cũng có một món quà tự mang về cho chính mình: khi thì là một bản tin chính xác nhất cho hãng, khi thì là khám phá mới về văn hoá Việt Nam, đôi khi lại còn là một bài học về cách làm người - sống để đức cho con cháu.
Nhờ đó, cánh phóng viên tuyệt đối tôn trọng ông. Ngay cả chính những phóng viên chiến trường lúc bấy giờ ở Việt Nam cũng đã nghiêng mình gọi ông là "nguồn cung cấp tin tốt nhất tại Sài Gòn" (Thomas A.Bass) khi cùng bàn luận tại quán cà phê Givral, nơi lần đầu tiên ông được phong "tướng" bởi những đồng nghiệp đủ mọi quốc tịch: "Tướng Givral"!
H.D.S Greenway (thường được biết đến với cái tên David) là phóng viên có mặt ở Khe Sanh năm 1971, sau này cũng nhớ lại: "Tôi chứng kiến nhiều người lính bị thương được đưa từ Lào về. Tôi mô tả họ như những người sống sót từ các đơn vị dẫn đầu cuộc tấn công", nhưng ông Ẩn nói không phải, "đơn vị dẫn đầu đã bị xoá sổ. Những gì anh đang chứng kiến là những người sống sót khi đang cố gắng hỗ trợ nhưng cũng bị thất bại. Tôi nghĩ lại về chuyện này: Có vẻ như ông Ẩn được thông tin khá chi tiết. Đó chính là sự đánh giá mà bạn chỉ có thể có được khi biết rõ cả 2 bên đang làm gì trong chiến đấu".
Trên thực tế, chiến dịch Lam Sơn 719 thất bại thảm hại, khi quân đội Việt Nam Cộng hoà mở cuộc tiến công Lào với quy mô lớn năm 1971 thì Phạm Xuân Ẩn đang ở Sài Gòn. Chính ông là người đã đọc và chuyển về Hà Nội nội dung của chiến dịch Hạ Lào trước khi nó được thi hành. Ông giữ bí mật tuyệt đối cho nghề tình báo mà ông theo đuổi hai thập kỷ qua.
Còn với tư cách đồng nghiệp một người làm báo, ông đã cho Greenway một lời khuyên chính xác về bản chất của sự kiện. Lời khuyên có giá trị giữ gìn danh tiếng cho Greenway (người mà năm 1973 đã rời khỏi tờ Time và sau này trở thành biên tập viên của tờ Boston Globe), bởi cũng trong thời gian này, chính Jean Claude Pomonti cũng bị đánh lừa bởi "những thành công của chiến dịch" trong những bản tin mà phóng viên này chuyển về Pháp.
Đó chỉ mới là khúc gút của câu chuyện về nghề làm báo của Phạm Xuân Ẩn trong việc tôn trọng đồng nghiệp và tinh thần tương hỗ của những phóng viên, thông tín viên của các hãng lớn ở Sài Gòn đang có sự cạnh tranh khốc liệt về tin tức. Ông nói rằng, ông tuyệt đối tuân thủ "tinh thần thể thao" trong nghề nghiệp mà báo chí Mỹ đã dạy cho ông.
Chính vì vậy, những đồng nghiệp của ông thời bấy giờ đã phải kính trọng nhà tình báo - nhà báo cộng sản này, dẫu cho nhiều tác phẩm mà họ viết về ông, dù muốn hay không, cũng cố áp đặt góc nhìn có hơi hướng chính trị lên những sự kiện liên quan đến cuộc đời vị thiếu tướng tình báo đầy giai thoại và huyền thoại này.

Bí mật sau những bản tin

Tháng 7/1964, tất cả các nhà báo ở Sài Gòn cố gắng tìm kiếm nguồn xác minh thông tin "Mỹ có đổ quân và bao giờ Mỹ đổ quân vào Nam Việt Nam?". Câu trả lời liên quan đến thượng tầng chóp bu của chính giới Mỹ. Tất nhiên, chóp bu của Mỹ tại Sài Gòn là toà đại sứ.
Một buổi tối, tại quán bar La Cigale, viên bí thư của đại sứ Cabot Lodge ngật ngưỡng bước vào với bộ quần áo chim cò, khoác vai một cô gái đẹp. Không phải những lần "tung tin để nhận tin", trao đổi tin tức như trước, viên bí thư chỉ mong một đêm ăn chơi tới bến vì "một tuần nữa tôi về nước rồi".
Sau mỗi bản tin của nhà báo Phạm Xuân Ẩn là một bí mậtTrong đêm đó, bản tin của Reuters đánh đi từ Sài Gòn: "Một tuần nữa, Mỹ thay đại sứ ở Nam Việt Nam". Sự nhanh nhạy nghề nghiệp của Phạm Xuân Ẩn giúp cho Reuters có bản tin độc quyền trước các hãng, dù sau đó chính ông đã phải mất thời gian bị an ninh Việt Nam Cộng hoà thẩm vấn để tìm hiểu nguồn tin, được ông kiên quyết bảo vệ vì "chính người Mỹ dạy tôi như vậy".
Nhưng có một câu chuyện chưa bao giờ được kể: Sau khi bản tin của Reuters đánh đi, Phạm Xuân Ẩn đã nhấc máy gọi cho đồng nghiệp "có cái tin như vậy, coi thử sao", không phải để tìm kiếm người "chia lửa" những rắc rối phát sinh, mà bởi nguyên tắc "thi đấu thể thao" giữa những người làm cùng nghề, mà ông đã thấm nhuần. Trước và sau câu chuyện này, ông vẫn thường xuyên làm như vậy.
Đúng 1 tuần sau khi bản tin được phát đi, Maxell Taylor sang Nam Việt Nam thay cho H.C. Logde, khẳng định sự chính xác của bản tin mà Hai Trung đã gửi. Đồng thời khẳng định chắc chắn Mỹ sẽ tiếp tục tăng cường quân số ở Nam Việt Nam.
Thời điểm đó, Hai Trung nhận định: "Mỹ không đổ quân vào thì bọn ngụy chỉ có chết mà thôi. Vì vào đầu năm 1965, cho đến khi Mỹ đổ quân thì mỗi tuần chúng bị mất một quận lỵ và 1 tiểu đoàn quân chính quy". Nhận định này bắt nguồn từ vị trí của một nhà báo có nhiều nguồn tin và đầu óc của một điệp viên chiến lược biết phân tích từ chiều hướng chiến lược từ những nguồn tin rời rạc đó.
Trong một trang hồ sơ tuyệt mật, Hai Trung tự nhìn lại quãng thời gian phục vụ cho Reuters: "Trong quãng thời gian 1960 đến 1964, Reuters luôn là hãng thông tấn có những bản tin tốt nhất, nhanh nhất gửi đi từ Sài Gòn".
Và tất nhiên, trong những bản tin đó đều có bàn tay, khối óc của Phạm Xuân Ẩn.

Ghi điểm trong đảo chính

Trước vụ đảo chính năm 1963 đúng 3 năm, trong đêm 11/11/1960, lính dù của Diệm cũng đã từng đảo chính. Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh lực lượng dù, người được tạp chí Time mệnh danh là "chuyên gia đảo chánh" và cũng là một trong bốn người được Diệm “thương như con”, được cho là cầm đầu.
Khi đó, Phạm Xuân Ẩn đã là nhân viên chính thức của Reuters, đồng thời ăn lương tại Sở nghiên cứu chính trị văn hoá xã hội (Phủ Tổng thống) của trùm mật vụ Trần Kim Tuyến và ở cả Việt Tấn Xã.
Thời điểm đảo chính xảy ra lúc 4 giờ sáng. Ngay sau khi xác minh thông tin từ cả phe đảo chính (Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông) lẫn phe Diệm - Nhu, chính Phạm Xuân Ẩn đã đến tận nhà báo động cho Trần Kim Tuyến: "Đảo chính thật rồi. Ông không dắt vợ con trốn đi, nằm nhà chờ lính dù đến bắt hả". Với Lê Văn Thái, nhân viên của Tuyến, ông cũng đích thân đến báo động để Thái đi trốn.
Tuy nhiên, sáng sớm hôm sau, sau khi tìm cách gửi điện tín tin tức đi, thấy thái độ chần chờ của Nguyễn Chánh Thi trước cửa Phủ Tổng thống, Phạm Xuân Ẩn hỏi ngay: "Lính dù vây chặt rồi, sao không tiến vào đi đại tá?". Lập tức, Thi văng miệng: "Đ.má, mày làm nhà báo mà còn nóng hơn tao làm nhà binh!". Linh tính nghề nghiệp đã báo cho ông: "câu chuyện còn dài".
Trên thực tế, đúng là Nguyễn Chánh Thi có ý định đảo chính thật, nhưng kế hoạch của ông ta không phải vào ngày đó, chẳng qua bị đám sĩ quan gí súng ngắn vào đầu ép phải làm. Sự chần chừ của Thi trong việc chờ thương thuyết đã khiến Phạm Xuân Ẩn mạnh dạn khẳng định: cuộc đảo chính sẽ thất bại!
Rốt cuộc, đúng như dự đoán. cuộc đảo chính thất bại chỉ trong vòng vài ngày ngắn ngủi như Reuters nhận định. Ẩn chính thức "lên điểm" trong mắt của hãng tin này, đồng thời trở thành ân nhân của của Tuyến lẫn Thái vì "có ơn" cứu mạng.
Quan trọng hơn, nội tình cuộc đảo chính của “con” đối với “cha” mà Hai Trung báo cáo đã giúp cho Hà Nội cũng có những bản báo cáo chính xác về phương hướng chiến lược của Mỹ - Diệm trong thời gian ngắn sau này.

Thứ Năm, 30 tháng 8, 2007

Huyền thoại về Cụm tình báo H.63 - phần 2

Kỳ 11: "Điệp viên tay mơ" thành người Việt trầm lặng

(VietNamNet) - Những câu chuyện từ thuở chính thức nhận lời bác sĩ Thạch "làm điệp viên chiến lược" (1952) cho tới năm 1954 đã được chính Hai Trung mổ xẻ: "Thời gian làm tình báo đến giữa năm 1954, Hai Trung đã có nhiều kinh nghiệm hoạt động nguyên tắc, đặc biệt là quan hệ giữa người và người, nhưng anh ta vẫn là một điệp viên tài tử miệng còn hôi sữa, nhưng rất nhiệt tình, có nhiều tin".
>> Kỳ 10: "Mùi" của một điệp viên>> Kỳ 9: Chuyến đi của "con sói cô độc">> Huyền thoại về Cụm tình báo H.63 anh hùng - Phần 1>> Người giữ khoá bí mật ở Bộ Tổng tham mưu VNCH
Nắm rõ từng bước đi đầu tiên của Mỹ - Diệm
Những năm chui vào phòng 5 Bộ Tổng tham mưu, là bí thư của Phạm Xuân Giai, cấp bậc thượng sỹ đồng hoá (dân sự chuyển ngạch - NV), Trung làm điệp viên như một... cái máy, cứ thấy có tài liệu nào ghi chữ "phổ biến hạn chế", "mật", "tuyệt mật" là "vồ lấy vồ để", vồ như vồ gà, rồi đem tất cả về cho "anh Ba".
Đặc biệt, Trung khoái tìm các tài liệu chiêu hồi, tài liệu chiến tranh tâm lý.

Trong cái cảnh tranh tối tranh sáng của buổi "giao ban" giữa hai đế quốc Mỹ - Pháp về quyền và vai trò ảnh hưởng đối với mảnh đất Nam Việt Nam thì những kẻ làm thuê luôn tìm mọi cách bảo vệ quyền ảnh hưởng cũng như vai trò của "ông chủ". Tất nhiên, bảo vệ “ông chủ” cũng chính là bảo vệ quyền lợi cho bản thân họ.
Cuối năm 1954, Phạm Xuân Giai và Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Văn Hinh dự tính làm cuộc đảo chính Diệm - người đang được ông chủ Mỹ hậu thuẫn ghê gớm trong việc xây dựng lực lượng.
Cuộc đảo chính thất bại. Hinh và Giai "té" ra nước ngoài. Trung khốn đốn vì bị đám tướng lĩnh của Diệm nghi ngờ, điều tra. Nhưng cái vẻ lành lành, cộng thêm một chuyện may mắn tình cờ vào đúng thời gian đảo chính đã giúp Trung có được hai chữ "vô can".
Mỹ bắt đầu thế chân Pháp, nhưng mọi chuyện không dễ dàng vì trong hàng ngũ sĩ quan còn rất nhiều người theo Pháp. Hai Trung do biết cả tiếng Anh, tiếng Pháp nên được chuyển qua làm người liên lạc cho phái bộ Mỹ và đám sĩ quan Việt Nam Cộng hoà – những người đang được Mỹ lôi kéo và gấp rút đào tạo.
Có mặt tại quân trường Thủ Đức trong khoảng thời gian này với vai trò người phiên dịch, Hai Trung có thời gian tiếp cận, giúp đỡ những sĩ quan cốt cán từ những ngày đầu trong chế độ Diệm, khi 6 sư đoàn khinh quân đầu tiên được người Mỹ thành lập và huấn luyện.
Tất nhiên, khi hoàn thành xong công việc bình phong, Hai Trung không bao giờ trở về tay không. Toàn bộ tư liệu, tài liệu giảng dạy đều được Trung "cuỗm sạch" mang về cho anh Ba.
Dấn thân với đủ loại người
Những thành công bước đầu khiến chàng trai trẻ mạnh dạn hơn trong việc đề xuất với cấp chỉ huy: Xin tiếp cận với các trùm an ninh Pháp như Cousseau, Savanni, thông qua sự giới thiệu của Đàm Quang Thiện và Đái Đức Tuấn (Tchya).
Tính bộp chộp của tuổi trẻ ở Trung khiến anh Ba phải nhanh chóng ngăn lại: "tích cực thế là tốt, nhưng phải biết mục tiêu mà đánh, phải so sánh lực lượng, không phải đụng chỗ nào cũng tấn công cả".
Để dạy thêm cho Trung, anh Ba bảo Trung mời một người đến nhà nói chuyện về thời cuộc, ông sẽ xuất hiện vô tình để xem cách Trung khai thác thông tin như thế nào. Nhân vật được chọn là Cao Hoài Phong, con trai Cao Hoài Sang - lúc bấy giờ là đương kim quyền Đức hộ pháp Cao Đài. Bài học về cách khai thác thông tin sau buổi nói chuyện giúp Trung hiểu thêm về "tầm cỡ" của một điệp viên phải như thế nào.
Vì vậy, suốt quãng thời gian năm 1955-1956, Trung vừa "vồ" tài liệu, vừa tiếp tục thắt chặt các mối quan hệ với giới sĩ quan trong việc giúp đỡ họ phỏng vấn, xin visa, đưa tiễn sang Mỹ, theo dõi làm báo cáo về học viên, thông báo cho gia đình ra đón khi học viên về nước.
Thậm chí, Hai Trung còn chẳng ngại giúp họ xách đồ khi người nhà sĩ quan từ Mỹ về đang lo mừng tủi ôm nhau. Đôi khi, nhiều viên sĩ quan “vô ý” xách về vài kiện hàng quá tiêu chuẩn, Hai Trung lại tự mình đi “xin” giúp bên hải quan, bởi ông đã có mối giao hảo từ trước.
Cũng từ đó, Trung dần lặn sâu vào giới sĩ quan quân sự người Việt - lớp "Mỹ con" được Mỹ đào tạo để thay thế sĩ quan thân Pháp, đồng thời tiếp tục phát triển mối quan hệ tin cậy với những nhân viên CIA đang có mặt tại Nam Việt Nam như Đại tá Lansdale - Trưởng phái bộ quân sự đặc biệt của Mỹ (SMM), tiến sĩ Parker – Giám đốc cơ quan Văn hoá Á châu (The Asia Foundation)... để từng tháng, từng năm tích luỹ kinh nghiệm, để cuối cùng trở thành "một điệp viên đã thách thức nước Mỹ", như lời mà Jean Claude Pomonti đã viết về ông.
Trở thành “đạo diễn” người Việt trầm lặng
Kinh nghiệm tích luỹ dần, cho đến năm 1956, Hai Trung biết tin người Mỹ muốn lập một lực lượng đặc biệt (biệt kích) cho quân đội Việt Nam Cộng hoà, tương tự lực lượng đặc biệt của Mỹ, chuyên thọc sâu vào hậu phương đối phương, đánh nhanh rút gọn nhằm mục đích phá hoại.
Kế hoạch này do Cơ quan huấn luyện lục quân hỗn hợp (CATO) tiến hành, được sự đồng ý của cấp cao nhất ở phái đoàn Mỹ là Thượng tướng Samuel William.
Tuy nhiên, sự hục hặc giữa phòng Quân huấn của Bộ Tổng Tham mưu và các sỹ quan CATO khiến kế hoạch này bị xếp xó.
Nắm rõ được nội tình, Trung khéo léo đến gặp thẳng Thiếu tướng Trần Văn Đôn - Tổng Tham mưu trưởng, đề nghị tướng Đôn nên "chấp nhận kế hoạch của họ nhưng triển khai là việc của ta". Nghe Hai Trung lý giải, tướng Đôn đồng ý ngay với chiêu thức này để không làm mất mặt người Mỹ.
Còn về phía Mỹ, trước đó Hai Trung đã nhận lời giúp đỡ nên việc được chuẩn y kế hoạch khiến Trung tá George Melvin - Trưởng phòng Huấn luyện quân sự Mỹ, người trực tiếp soạn thảo kế hoạch - hứng khởi ra mặt. Melvin còn mời Trung vào ăn trưa ở nhà ăn của cố vấn Mỹ, với đủ khuôn mặt các nhân vật CIA đình đám: Edward Lansdale, Rufus Philipps...
Tất nhiên, kế hoạch đậm chất cao bồi kiểu Mỹ đó đã thất bại. Mãi tới năm 1973, khi gặp lại Trung ở Sài Gòn, Melvin vẫn liên mồm chửi Bộ Tổng tham mưu Cộng hoà là "bọn ngu", trong khi ông ta không hề biết rằng, người đạo diễn vụ “tranh ăn” đó là một đại tá tình báo của Hà Nội.
Rút vào thầm lặng, phân tích và thiết lập quan hệ, tự tạo dựng bình phong và gây dựng lòng tin, cuối năm 1957, sau đám tang cha, Trần Văn Trung rời Sài Gòn qua Mỹ theo yêu cầu "học Mỹ để đánh Mỹ" của tổ chức.
Anh mang theo nhiệt huyết, hoài bão, và kiến thức về nhiệm vụ đã được dạy dỗ qua 5 người thầy mà mãi tới sau năm 1975, Đại tá Trần Văn Trung mới có điều kiện biết được tên thật của họ.
Gần đây nhất, trong phần kết của cuốn sách viết về Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn với tựa đề "Một người Việt Nam thầm lặng - Câu chuyện tuyệt vời về một điệp viên đã thách thức nước Mỹ", nhà báo kỳ cựu của tờ Le Monde (Pháp) Jean Claude Pomonti đã bộc lộ những nghi ngờ rằng cuộc sống của điệp viên huyền thoại này sau năm 1975 đã có nhiều khó khăn, thậm chí có sự cấm đoán trong việc tiếp xúc với các mối quan hệ của mình.

Nhưng chắc rằng, trước khi viết ra những lời nhận xét đó, nhà báo này chưa bao giờ được biết tới những bí mật từ thuở còn trẻ của Hai Trung: từ những câu chuyện về tình anh em đồng chí, những kỷ niệm đi biểu tình ngoài đường của cậu thanh niên Việt Minh Hai Trung cho tới những kinh nghiệm xương máu phải ẩn mình thật kỹ để bảo vệ cách mạng, những bài học về cái đuôi ngộ nghĩnh...

Đó là những điều mà chỉ những người có chung một dòng máu, một nghề nghiệp mới thấu hiểu được nhau.

Trong suốt cuộc đời mình, không ít lần trái tim kiên cường của nhà tình báo Hai Trung đã phải rung lên đầy xúc động, chỉ bởi một cái hôn vào má tạm biệt của người chỉ huy trước khi lên đường đi Mỹ, một dáng giao liên mảnh mai đi về tuyến lửa hay một lời căn dặn ấm áp nghĩa tình: Đảng và nhân dân sẽ không bao giờ quên ơn.

Thứ Tư, 29 tháng 8, 2007

Huyền thoại về Cụm tình báo H.63 - phần 2:

Kỳ 10: "Mùi" của một điệp viên

(VietNamNet) - Hai Trung đã tự "cắt đuôi con tiểu tư sản" theo cách của mình và chẳng hề giống ai. Cắt đi rồi, lại lòi cái đuôi khác, còn sơ hở hơn. Thế nên sau này ngồi nhìn lại, ông thừa nhận "buổi đầu làm tình báo, áp dụng các bài học vào thực tế đều... sai be bét". Sai đến... "bốc cả mùi"...
>> Kỳ 9: Chuyến đi của "con sói cô độc">> Huyền thoại về Cụm tình báo H.63 anh hùng - Phần 1>> Người giữ khoá bí mật ở Bộ Tổng tham mưu VNCH
Cái đuôi con tiểu tư sản…
Xuất thân của Trần Văn Trung là con một gia đình trung lưu ở thành thị, được giáo dục theo gia phong nhà nho. Ngày còn bé, Trung được cha dạy theo quan điểm “thương cho roi vọt, ghét cho ngọt ngào”. Chơi bời lêu lổng, học hành không ra nơi ra chốn, quên nỗi nhục mất nước là những điều không được phép có ở cậu Hai Trung. Vậy nên cứ những lần nghịch ngợm, láu táu là Trung lại rất được ba... “thương”.

Nhưng lạ cái, nghiêm khắc với con là vậy, song gia đình ông lại sẵn lòng nuôi giấu cán bộ Thành uỷ từ những ngày cách mạng sục sôi kháng Pháp. Năm 1947, cha của Trung còn bị tên mật thám Lơ Bét-xơn - Trưởng ty Công an Rạch Giá - hành hạ khi ông đang cố tìm cách bắt liên lạc với cách mạng.
Xét về thành phần gia đình như vậy là quá cơ bản, ấy thế mà những điều đó cũng không được các anh chỉ huy "tha", từ anh Sáu (Nguyễn Vũ) cho tới anh Tư Tùng (anh Hai, Dương Minh Sơn) đến anh Ba (Mười Hương) trong những bài giảng đầu tiên về chính trị và nghiệp vụ: "Cậu là một thằng tiểu tư sản, mà thằng tiểu tư sản có máu thích làm anh hùng, mê xi nê nên dễ hỏng việc. Hơn nữa, con tiểu tư sản lại còn có một cái đuôi. Cái đuôi đó là lối sống trưởng giả, là cách ăn nói, đối xử hợm hĩnh với con người, đặc biệt là người dân nghèo, mà họ gọi là tầng lớp dưới. Dù cậu có khéo giấu đến đâu thì sớm muộn cái đuôi đó cũng lòi ra, kinh tởm bỏ mẹ. Phải tìm cách cắt cái đuôi đó đi. Nhưng cái đuôi của con tiểu tư sản không phải như đuôi chồn, đuôi cáo, cầm dao cắt phéng một lần là xong. Vậy nên phải thường xuyên kiểm tra, kiểm điểm, nghiêm khắc với bản thân mình. Phải thường xuyên xem lại bản thân mình, hằng ngày, hằng giờ".
Lối giảng bài đậm chất dân dã, tục nhưng dễ nhớ đó đã in sâu vào trí nhớ của Trung, trở thành châm ngôn sống và hoạt động mãi về sau của chàng điệp viên trẻ này: "Phải luôn nghiêm khắc với chính bản thân mình".
Tuy nhiên, cái khó của nghề tình báo thì chẳng sách vở đâu dạy đầy đủ, ngoài chính cuộc đời và chính tự mình. Hai Trung nghe giảng bài, thực hành nghiêm túc lắm. Cứ mỗi giờ nghỉ trưa, Hai Trung lại chạy tuốt xuống ăn cơm, ba cùng "cùng ăn, cùng làm, cùng nghỉ" với anh em phu khuân vác ở Khánh Hội. Tính Trung vốn dân dã nên được nói chuyện với đồng bào nghèo khổ, Trung thấy hợp lắm. Cậu còn mê chơi với công nhân đến độ ghét ra mặt với những tên người Việt hay người Hoa kết hợp với người Pháp buôn lậu.
Có lần, một thằng Pháp làm cho hãng bốc xếp Rondon bắt nạt nhân viên của Hai Trung, làm Trung nóng mặt, chụp cổ đánh ngay tại văn phòng. Biết chuyện, tên trưởng phòng Stenou gọi vào, cho nghỉ việc 3 ngày để Trung... nguôi cơn giận, xong xuôi sẽ kêu tên Pháp kia đến tận nơi xin lỗi.
Hai Trung nghe vậy hài lòng lắm, phải thế chứ, cho tụi bây biết tay, đâu có thể cho nó bắt nạt đồng bào mình được. Thế rồi Hai Trung nằm thẳng cằng, nghỉ một lèo ở nhà 3 ngày cho hả giận.
Biết chuyện, anh Tư Tùng hoảng quá, vội vàng dập ngay “cơn sĩ” của Hai Trung lại. Trời đất, làm thế là bị... “lòi đuôi” rồi còn gì? Đuôi nào cơ? Nghe lời chỉ huy, Hai Trung đã chặt phăng cái đuôi tư sản rồi còn gì?
Vậy đấy, nguy hiểm ở chỗ, cái đuôi đó lại không phải là “đuôi tư sản”, mà là “đuôi... yêu nước”. Làm tình báo thì không được nóng nảy, tự ái cá nhân. Muốn tỏ ra là sếp bênh đàn em thì đâu có được? Đã được giao việc mật ngay trong lòng địch mà lại không thèm chơi với “đồng nghiệp”, không nhận đút lót, từ chối nhậu nhẹt, không chịu đi... tán gái thì còn làm ăn nước mẹ gì? Rõ là chỉ có thằng cộng sản thì mới nghiêm túc, kiên định vậy. “Lòi đuôi” thế thì còn chiến đấu ra sao?
Hai Trung nghe giảng mới à lên. Hoá ra làm tình báo không phải dễ như ăn cơm, càng không bóng lộn như trên phim ảnh. Làm chiến sĩ tình báo, nếu không tự hiểu mình là ai và vận dụng trí tuệ đúng lúc thì đôi khi sẽ phải trả giá bằng mạng sống.
Sau thời bình, trong lần thử phân tích về chính mình, chính Thiếu tướng Trần Văn Trung đã nhìn nhận: "Điệp viên phải có tính kỷ luật cao, nhất là kỷ luật tự giác vì anh ta hoạt động đơn độc, không có ai bên cạnh kiểm tra cả. Thiếu kỷ luật thì dễ chủ quan dễ buông lỏng nguyên tắc, dễ mất cảnh giác và cuối cùng là dễ bị bắt".
Mà nếu đã bị bắt, điệp viên chỉ còn nước chọn: hoặc chết, hoặc khai. Bởi trong mọi đòn tra tấn, đòn tra tấn dành cho điệp viên tình báo bị bắt là khủng khiếp nhất: đánh cho khai, khai ít đánh cho khai nhiều, khai nhiều đánh cho khai hết. Thậm chí, kẻ thù không từ bất cứ thủ đoạn nào, thậm chí dùng thuốc độc khiến điệp viên khi ra khỏi nhà tù trở nên thần trí bất thường. Việc thoát khỏi nhà tù do may mắn hay được tổ chức đào thoát là cực kỳ hãn hữu.
Kinh nghiệm đó, ông đúc kết trong hàng chục năm nằm sâu trong lòng địch, tiếp xúc với đủ loại nguồn tin lẫn chứng kiến những trận đòn thù tra tấn của đối phương đối với các chiến sỹ Việt cộng bị bắt.
Trung đã tự "cắt đuôi con tiểu tư sản" như thế, theo kiểu chẳng hề giống ai. Cắt đi rồi mà lại lòi cái đuôi khác, còn sơ hở hơn, thế nên sau này ngồi nhìn lại, ông thừa nhận là "buổi đầu làm tình báo, áp dụng các bài học vào thực tế đều... sai be bét".
... Sai đến bốc cả mùi
Làm ở Hải quan được hơn 1 năm, đến hết mùa mưa năm 1952, Hai Trung đã bắt đầu được khen ngợi vì tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên, tình hình lúc này bắt đầu ngày càng căng thẳng. Lo ngại Hai Trung có thể bị bắt đi lính, các đồng chí chỉ huy đã ra lệnh cho Hai Trung phải tìm mọi cách để tránh bị bắt lính, đồng thời phải tìm người thay thế trong việc lấy tin tức quân sự ở Hải quan, đề phòng bất trắc.
Cuối cùng, thông qua việc vận động được người anh họ là Phạm Xuân Giai - Trưởng phòng 5 (phòng tâm lý chiến) Bộ Tổng tham mưu, cánh tay đắc lực của Trung tướng Nguyễn Xuân Hinh (Tổng tham mưu trưởng), Hai Trung vào làm bí thư cho Giai với mục đích trốn lính.
Vào cơ quan đầu não của quân đội rồi mà Trung vẫn sống ngoan ngoãn, “sạch sẽ” tới mức những sĩ quan cùng phòng đã phải ngao ngán vì rủ rê Trung chơi bời mãi không được: "Thằng anh thì cái gì cũng sắc bén, cái gì cũng biết không ai qua mặt được, chơi bời không thiếu thứ gì. Còn thằng em thì thật thà như đếm... không biết trời sinh ra để làm gì mà sống khổ sở thế".
Có lần, nửa đêm cuối tháng 3/1955, Bình Xuyên pháo kích vào Dinh Độc Lập. Nội bộ chính quyền Diệm lục đục, phe thân Pháp và phe thân Mỹ muốn thôn tính lẫn nhau, các sĩ quan đánh hơi thấy nguy hiểm, trốn chui lủi ở nhà hết. Có mỗi Hai Trung là “ngây thơ chạy đến” xem tình hình, thậm chí còn hớn hở tuyên truyền để lung lạc tinh thần sĩ quan: tình hình cứ thế này thì đến bầu cử 1956, Bắc sẽ thắng Nam.
Ngày đó, Hai Trung mới vào nghề, đã được dạy gì đâu? Cậu chưa đủ kinh nghiệm để hiểu rằng, dù có choảng nhau thì cũng chẳng bao giờ Pháp và Mỹ muốn rút lui để trả đất nước này về cho dân tộc Việt, bởi dù thua hay thắng thì bản chất đế quốc vẫn luôn là xâm lược.
Tuy nhiên, trong cái rủi lại có cái may. Sự hồn nhiên, thật thà đó lại khiến cho nhiều sĩ quan Pháp, Mỹ, Việt cảm mến, giúp cậu vượt qua nhiều cái bẫy một cách rất tình cờ. Chính họ cũng chẳng hiểu nổi tại sao lại có thể yêu quý một cậu nhóc gầy ốm, hiền lành mà lại rất chân thật, hài hước đến thế được. Bởi có thể chính họ đã không chịu hiểu, đứng trước sức mạnh quá lớn của sự lương thiện, ai cũng sẽ tìm cách tự làm trong sạch chính mình. Yêu quý, giúp đỡ một chàng thanh niên tốt bụng có phải là cách giúp họ tẩy bớt nỗi tủi hổ sau những chuỗi việc ác chăng?
Đến tận năm 1957, khi đã qua Mỹ học, Hai Trung vẫn còn chưa cắt được cái “đuôi yêu nước” của mình. Đứng trên đất Mỹ, học nghiệp vụ Mỹ, thế mà trong những buổi thuyết trình, Trung vẫn cứ hồn nhiên chêm vào nào là "áp bức, bóc lột”, nào là “cách mạng, đế quốc" - những khái niệm mà người Mỹ lúc bấy giờ đặc biệt dị ứng.
Hai Trung thật đến nỗi bị giáo sư giảng dạy đánh điểm kém cho những bài luận luôn xuất sắc, chỉ vì cậu không nghĩ được rằng, trong số rất nhiều giáo sư, cũng có những người đang làm công việc y như cậu. Họ muốn dò tìm manh mối cộng sản trong những con người do chính họ đào tạo nên. Đi học trên đất Mỹ đâu chỉ là học thêm kiến thức, đó thực sự còn là một cuộc cân não lớn.
Hai Trung phát hiện ra điều đó sau một thời gian dài luôn đứng đầu lớp. Ấy là lần một bà giáo vốn là nhân viên phòng tình báo Hải quân Mỹ giương mục kỉnh lên thắc mắc: "Học kiểu như mày, chỉ có là cộng sản". Chột dạ, từ đó Hai Trung bỏ luôn thói miệt mài đèn sách để giành điểm cao.
Ngẫm nghĩ lại, Trung mới ngộ ra rằng, hoá ra yêu nước không thôi là chưa đủ. Nếu không dùng cái đầu để đấu trí lại thì chắc chắn mình sẽ thua. Trong khi biết bao sĩ quan miền Nam Việt Nam qua Mỹ học một ít, còn đâu dành thời gian ăn chơi, tiêu xài, mua sắm, nhảy đầm, cặp gái... thì Trung chỉ như một thầy tu, suốt ngày cắm đầu vào học và nghiên cứu.
Thực tế, Hai Trung chỉ có thể làm thế khi được sống trong sự che chở an toàn của đồng bào. Còn ở đây, một mình giữa hang sói, nếu bê nguyên những nguyên tắc đạo đức vào thì chỉ có thể đổ máu, mất xác mà thôi.

Thứ Ba, 28 tháng 8, 2007

Lễ Vu Lan rằm tháng 7

Vẳng đâu đây lời Văn tế thập loại chúng sinh:

"Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cői dương còn thế nữa là cői âm
Trong trường dạ tối tăm trời đất
Có khôn thiêng phảng phất u minh
Thương thay thập loại chúng sinh"

Lại đến mùa lễ Vu Lan.

Vào dịp này, trời thường mưa gió, sập sùi. Thủa trước, khi còn nghèo nàn, quang cảnh thôn quê rất đỗi thê lương. Nguyễn Du từng mô tả trong "Văn tế thập loại chúng sinh":
"Trời tháng Bảy mưa dầm sùi sụt;
Toát hơi mây lạnh ngắt xương khô;
Não người thay buổi chiều Thu;
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng"..

Tiết trời như vậy thật dễ làm cho con người ta thấy được sự mong manh của kiếp người với cõi người, và lễ xá tội vong nhân vào dịp này dường như càng là sự ấn định hợp lý của Trời, Đất và Đức Phật.

Theo nhà Phật, đó là lễ Vu Lan, bắt nguồn từ tích Tôn giả Mục Kiền Liên thương mẹ bị đọa đầy dưới địa ngục, được Đức Phật chỉ bảo làm lễ cúng Giàng, chú tâm cầu nguyện thì có thể siêu thoát cho mẹ. Lại có một tích khác của người Trung Hoa kể rằng, ngày lễ trên có liên quan đến câu chuyện "quỷ miệng phun lửa" đến tịnh thất của ông A nan đà đòi ăn. Ông này sợ hãi, đến bạch đức Phật và được Ngài dạy đến rằm tháng Bảy làm lễ cúng quỷ phun lửa sẽ được thêm phúc đức.

Nguời dân Việt tiếp nhận những tích chuyện này nhưng đã mở rộng ra, biến thành lễ "xá tội vong nhân". Không chỉ là dịp lễ để tỏ lòng thành kính với các bậc sinh thành, cũng không cúng riêng "quỷ miệng lửa" mà cúng tất cả các cô hồn nói chung. Nguời ta cho rằng, những ai khi sống phạm nhiều tội lỗi thì linh hồn sẽ bị xiềng xích chịu đày ải nơi địa ngục. Tuy nhiên, mỗi năm đến dịp rằm tháng Bảy, xiềng gông được mở để mọi cô hồn có dịp trở về dương thế gặp lại người thân, nhận tiền vàng, đồ ăn và quần áo. Mỗi năm một lần, mọi linh hồn, bất kể khi sống thế nào, đến ngày đó vẫn được "xá tội", được hưởng sự yêu thương của đồng loại. Nhà nhà mua sắm đồ vàng mã, nấu cháo loãng, rang bỏng ngô chuẩn bị cúng ngoài trời để đãi "ma đói" - những cô hồn vờ vật không có người thân cúng giỗ.


Hằng năm, cứ đến dịp này là mọi người lại tất bật sắm sửa lễ để cúng cho ông bà tổ tiên, báo hiếu với cha mẹ, những người đã mất, cho những linh hồn không ai thờ cúng, lang thang vất vưởng, cúng chúng sinh. Mọi người đều cầu chúc cho những người đã khuất có cuộc sống tốt đẹp hơn, gửi cho họ ít quần áo, tiền bạc cũng như hương hoa cho ngày duy nhất trong năm này. Không biết có kiếp sau không nhưng nghi lễ này như một sự nhắc nhở con cháu luôn nhớ đến những người thân đã mất. Âu cũng là một nét đẹp trong cuộc sống vốn tất bật và hối hả ngày nay.

Huyền thoại về Cụm tình báo H.63 anh hùng

Kỳ 9: Chuyến đi của "con sói cô độc"

(VietNamNet) - "Ai cũng biết khoác áo báo chí là một bình phong tốt nên bất kỳ cơ quan tình báo hay phản gián nào cũng muốn xây dựng bình phong này cho nhân viên của mình. Cũng vì thế mà một điệp viên khoác áo báo chí vào thì anh ta hôi sặc mùi điệp báo từ xa mà nhân viên an ninh cứ thế mà đánh hơi theo dõi" - Hai Trung (Trần Văn Trung) tổng kết.
>> Kỳ 8: Hạnh phúc của chiến sĩ tình báo?>> Kỳ 7: Sống giữa lằn ranh>> Kỳ 6: Giữa lòng địch để tang Bác Hồ>> Kỳ 5: Cứu đồng đội bằng cách... chia lửa về nhà>> Kỳ 4: Mỹ nhân của cố vấn Hải quân Mỹ!>> Kỳ 3: Đồng đội, duyên phận và những ám ảnh cuộc đời>> Kỳ 2: Tiểu thư Thành đô sống như... tiểu thuyết>> Kỳ 1: "Hoa trong tuyến lửa"
Nhưng ông đã ẩn mình và đi suốt hơn 20 năm trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, cung cấp về Hà Nội những thông tin quý giá đến mức các nhà lãnh đạo Hà Nội phải thốt lên tán thưởng: "Chúng ta đang có cái đầu ngồi ngay phòng chỉ huy chiến lược của cỗ máy chiến tranh Mỹ - ngụy".

Vậy cái đầu chiến lược và chuyến hành trình của con sói cô độc (Alone Wolf, thuật ngữ mà người phương Tây thường ví các điệp viên) trong hang hùm đã diễn ra như thế nào?

Chọn một người để cứu trăm người
Từng tham gia phong trào học sinh - sinh viên năm 1945, Trung được anh Đỗ Ngọc Thạnh (tức Ba học sinh) lựa chọn là gương mặt sáng giá để giới thiệu với Đặc khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định nhằm huấn luyện thành một thành viên cốt cán.
Tuy nhiên, cuộc gặp giữa Trung với anh Mười Cúc (tức Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh sau này, lúc bấy giờ là Bí thư Đặc khu uỷ - NV) đã không thể thực hiện bởi anh Ba học sinh sớm bị Pháp phát hiện, bắt và thủ tiêu. Mất liên lạc, Trung tìm cách thi đậu vào làm công chức Hải quan cho Pháp ở cảng Sài Gòn.
Mãi tới năm 1952, khi Cục tình báo Miền thành lập, Đặc khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định quyết định "nhường" Trung lại cho ngành tình báo. Liên lạc giữa Trung với tổ chức mới được bắt trở lại.
Khi hay tin mình được tổ chức giao cho làm tình báo chiến lược, Hai Trung... thất vọng lắm. Chàng thanh niên mới ngoài 20 tuổi muốn được tự tay cầm súng chiến đấu, chứ đi làm tình báo thì hoá ra là làm... thằng chỉ điểm à?
Lúc ấy, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch (Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến Đặc khu), là người chỉ huy trực tiếp của Hai Trung, phải giải thích kỹ, rằng tình báo chiến lược không phải là điểm chỉ viên, rằng đã đi chiến đấu thì ở vị trí nào cũng có ích, chớ không phải cứ cầm súng lên mới là yêu nước.
Bác sĩ Thạch còn nhấn mạnh, làm tình báo chiến lược sẽ rất gian khổ vì phải sống trong lòng địch, không được đồng đội trực tiếp chia sẻ như anh em trong rừng, nguy hiểm khó khăn hơn nhưng sẽ lại cứu được hàng trăm anh em đồng đội khỏi cái chết, giúp cho máu của đồng bào bớt đổ, giúp cho cuộc cách mạng mau tới thành công.

Hai Trung nghe ra, nhưng vẫn chưa hoàn toàn chịu. Cậu tự nhận mình “thật thà, ngớ ngẩn, hay tin người lắm, làm sao làm được”, song bác sĩ Thạch vẫn khẳng định: Đảng đã nhìn ra khả năng của Hai Trung rồi, cứ nhận việc đi, vừa làm vừa học.
Thế là, trong bữa cơm chiều ở chiến khu D giữa mùa xuân, tháng 2/1952, Hai Trung chính thức nhận nhiệm vụ thiêng liêng: trở thành chiến sĩ tình báo.
Lời dặn dò kỹ lưỡng của bác sĩ Thạch hôm đó "Đảng và dân ta còn nghèo lắm. Phải giữ vững tinh thần cách mạng thì mọi khó khăn sẽ lần hồi được giải quyết... Chú cứ yên tâm công tác, Đảng và nhân dân sẽ công bằng chấm công khi hy sinh" đã theo sát Trung suốt 23 năm nằm sâu trong lòng địch, trở thành một điệp viên chiến lược huyền thoại của ngành tình báo Việt Nam.
Nhiệm vụ đầu tiên: Sao chẳng giống xi nê?
Những ngày mới bắt đầu vào nghề, Hai Trung dùng công việc ở hải quan làm bình phong. Trung phụ trách bộ phận kiểm hoá, được tổ chức giao cho việc phải theo dõi hoạt động của quân đội Pháp, tìm hiểu về phương tiện, vũ khí chiến tranh, lập biểu đồ di chuyển của quân đội Pháp từ Marseille qua Đông Dương và ngược lại.
Nghe lệnh từ trên, Hai Trung vội trả lời ngay: “Tưởng làm tình báo thì phải như trong xi nê, làm những việc kinh thiên động địa, chứ kiểu này thì dễ như ăn cơm bữa và chẳng có gì giựt gân cả”.

Bác sĩ Thạch nghe Hai Trung láu táu vậy vội vàng ngăn ngay: “Dễ, nhưng nếu để địch biết thì số phận chắc chắn sẽ như anh Ba Học sinh. Đây là công việc mật, chú không được chủ quan”.
Nói rồi, ông dạy cho Hai Trung những bài học đầu tiên về cách liên lạc, cách viết tin, dặn Hai Trung phải cắt những liên lạc không cần thiết, không tham gia phong trào, không đi ào ào hô khẩu hiệu như ngày xưa, cũng không được cầm súng chiến đấu trực tiếp. Làm công việc mật gian khổ hơn nhiều, chớ không dễ như ăn cơm đâu.
Hai Trung nghe rồi mới bắt đầu chú tâm tìm hiểu công việc mà cậu chàng tưởng dễ như xi nê. Đến khi thực sự nhập vai, Hai Trung mới kinh hoàng tỉnh giấc, trời ơi, chiến tranh đang hiện ra mồn một trên những con số mà Trung phải xuất nhập hàng ngày.
Theo đó, ngay từ những ngày đầu năm 1952, không chỉ có tàu chiến của Pháp mà ngay cả tàu chiến của Mỹ cũng đã xuất hiện ngay giữa cảng Sài Gòn, với những đợt chuyển quân và vũ khí chiến tranh tối tân, di chuyển như con thoi từ Sài Gòn ra Đà Nẵng, Hải Phòng. Bàn tay của Mỹ đã thọc vào Việt Nam ngay từ khi Pháp vẫn còn chễm trệ giữ quyền lực ở Đông Dương và ào ạt đổ quân vào cứ điểm bất khả xâm phạm trên Điện Biên Phủ.
Đến lúc này, Hai Trung mới hiểu rằng tại sao mình được lựa chọn, bởi Đảng và các anh chỉ huy đã nhìn thấy những điều rất xa: cuộc chiến khốc liệt đang thực sự bắt đầu, và Đảng cần chọn đúng người để giao trọng trách.
Bước chân vào nghề tình báo những năm đầu tiên nghe cứ... như chuyện đùa. Thậm chí, những ngày đầu kháng Mỹ non sơ, chính bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - người thầy đầu tiên của Trung - cũng phạm phải lỗi cơ bản đến chết người: đó là nhận được tin tức tài liệu của Hai Trung xong, bác sĩ còn gửi đi phát sóng trên đài “Tiếng nói Nam bộ” nhằm tố cáo quân Pháp, rồi tới quan Mỹ trong việc cố tình tăng cường viện trợ vũ khí chiến tranh, nhân lực quân sự, đào tạo để ủng hộ Diệm phá hiệp định Geneve.
Ngay lập tức, hai chiến sĩ tình báo đầu tiên được điều vào Nam là anh Nguyễn Vũ và anh Dương Minh Sơn nhằm tăng cường cho bác sĩ Phạm Ngọc Thạch. Đích thân anh Nguyễn Vũ còn phải tìm mọi cách để chặn lại những bản tin trên để bảo đảm an toàn cho Hai Trung.
Những bài học vỡ lòng đó khiến cho Hai Trung và những người chỉ huy, những người đồng đội chưa bao giờ dám đùa hay lơ là công việc.
Nhiệm vụ đầu đời với Hai Trung xem ra chả giống gì với xi nê, thế nhưng hoá ra, cuối cùng cả cuộc đời ông dẫu có hàng chục bộ phim cũng chưa chắc đã dựng nổi.

Thứ Hai, 27 tháng 8, 2007

Khôn lớn nhờ tự do vui chơi

(Dân trí) - Khi con bước qua tuổi lên 5, nhiều bậc phụ huynh bắt đầu sốt ruột. Hình ảnh các “thần đồng” 3 tuổi bập bẹ từng con chữ khiến không ít bà mẹ “lo âu” khi bé yêu của mình vẫn mải miết chơi. Nếu bạn có cùng suy nghĩ như thế, hãy tin rằng bạn đã lầm!

Trẻ tiếp thu rất tốt khi chơi. Và những khoảnh khắc tung tăng nô giỡn ngoài trời chính là chương trình học lý tưởng nhất cho trẻ, giúp trẻ phát triển toàn diện về khả năng nhận thức, tình cảm, thể lý và xã hội.

Nhu cầu chính đáng của trẻ

Một số tài liệu khoa học đã chứng minh: Vui chơi ngoài trời, vui chơi vận động với các động tác chạy và trèo làm cho trẻ phát triển những kỹ năng thể lý, củng cố cơ bắp và thực tập thế cân bằng.

Ngoài ra, vì ở sân trẻ ít bị giám sát hơn trong lớp nên sân chơi cũng là nơi hoàn hảo nhất giúp trẻ học những bài học có tính xã hội.

Đùa giỡn ngoài trời, trẻ học cách chia sẻ và thay phiên nhau, bày trò để chơi chung. Khi xung đột nảy sinh, chúng giải quyết bằng cách của chúng, học cách thương lượng và hợp tác.

Trong nghiên cứu toàn cầu “Hãy để trẻ tự do vui chơi” của Mỹ vừa được tiến hành tại 11 nước, trong đó có Việt Nam, có tới 81% trong số 150 bà mẹ Việt Nam tham gia khảo sát hiểu rằng nếu thiếu những hoạt động vui chơi xã hội, trẻ sẽ khó lòng học được cách thiết lập các mối quan hệ.

74% bà mẹ cũng có suy nghĩ: Khi thiếu các hoạt động thể chất, vui chơi ngoài trời, trẻ sẽ khó lòng thấy hạnh phúc, vui tươi được với nhịp sống của mình.

Hãy để trẻ tự do vui chơi

79% bà mẹ Việt Nam tham gia vào cuộc khảo sát cho rằng: Tuổi thơ như thời họ từng biết đã qua rồi, và trẻ em ngày nay thường già trước tuổi.

Có tới 97% những bà mẹ khẳng định “Là cha mẹ, tôi cần bảo vệ tuổi thơ của con tôi!”.

Tuy nhiên, khi được đặt câu hỏi: Đâu là những vật cản lớn nhất cản trở quá trình chơi đùa của trẻ, có đến 59% lo lắng về vấn đề an toàn và 47% lo lắng về bệnh tật. Ngoài ra, một tỷ lệ khá lớn (29%) lo trẻ bị vấy bẩn.

Như vậy tuổi thơ của trẻ có lẽ chỉ được cha mẹ bảo vệ trong "cấm cung"?
Đến 91% bà mẹ tiết lộ rằng con họ gắn liền với… chiếc tivi, và chỉ 4% bà mẹ Việt Nam cho biết con mình có tham gia vào các trò chơi vận động (trong khi tỷ lệ này với các bà mẹ trên toàn thế giới là 22%).

Tất cả các hoạt động ngoài trời khác như khám phá thiên nhiên, chơi các trò chơi tưởng tượng, sáng tạo cũng chỉ đạt tỷ lệ rất thấp: từ 5-6%.

Trong khi đó, tỷ lệ cao đều dồn cả vào game, máy tính, hàng loạt các hoạt động “buộc” trẻ ngồi lì trong phòng hoặc trong nhà, bị tách biệt hẳn khỏi những hoạt động thể chất, những trải nghiệm thực tế, sự linh hoạt, sáng tạo trong xử lý tình huống và giao tiếp với bạn bè.

Khuyến khích và tạo điều kiện cho trẻ “bước ra ngoài” lúc này thật sự là việc cần làm. Vấn đề đặt ra là, các bậc phụ huynh cần ý thức được nhu cầu chính đáng này của trẻ, mạnh dạn cho trẻ ra ngoài chơi, đến với những địa điểm vui chơi an toàn, chơi những trò chơi mà trẻ yêu thích, hay cả việc lấm bẩn một cách có ích trong khi chơi…

Điều đó giúp trẻ có được những phút giây trọn vẹn tuổi thơ, được là chính mình, và tự do khám phá thế giới rộng lớn xung quanh.

Giúp trẻ học nói

(Dân trí) - Trẻ bắt đầu bi bô những từ đầu tiên, cha mẹ có thể quan sát xem kỹ năng ngôn ngữ của trẻ hình thành có đúng không. Dưới đây là quá trình hình thành kỹ năng ngôn ngữ ấy, cha mẹ nên chú ý để kịp thời điều chỉnh nếu bé phát triển sai.

0 đến 3 tháng tuổi

- Trẻ phát ra những âm thanh thể hiện sự vui thích và thường lặp lại.
- Tính chất của âm thanh thay đổi phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài.
- Trẻ cười khi nhìn thấy mẹ.

4 đến 6 tháng

- Trẻ phát ra những âm thanh bập bẹ giống như lời nói
- Khi cần gì trẻ sẽ bập bẹ hoặc ngọ ngoạy chân tay
- Trẻ thỏ thẻ, bập bẹ khi ở một mình hoặc khi có người chơi cùng

7 đến 12 tháng tuổi

- Trẻ bập bẹ và kéo dài một loạt những âm thanh ngắn
- Trẻ sử dụng những dấu hiệu giống như lời nói để thu hút sự chú ý
- Bắt chước những âm thanh khác nhau của người lớn
- Bắt đầu nói được hai hoặc ba từ (bố, bà), tuy nhiên phát âm còn chưa rõ.

1 đến 2 tuổi

- Mỗi tháng trẻ lại học thêm được vài từ mới
- Thử đặt ra các câu hỏi
- Sử dụng các phụ âm khác nhau ở đầu từ.

2 đến 3 tuổi

- Biết gọi tên hầu hết các vật xung quanh
- Sử dụng những câu gồm 2 - 3 từ
- Thường gọi to tên các vật.

3 đến 4 tuổi

- Kể những giờ học ở nhà trẻ hoặc mẫu giáo
- Thường trẻ con ở độ tuổi này đã có thể nói dễ dàng, không bị lặp âm tiết hoặc từ
- Lời nói dễ hiểu hơn
- Các câu nói thường cấu tạo từ 4 từ trở lên.

4 đến 5 tuổi

- Kể chuyện về những đề tài xác định
- Giao tiếp dễ dàng, biết sử dụng ngữ pháp của người lớn
- Về cơ bản phát âm đúng, trừ một số âm khó như “r” và “l”

10 nguyên tắc chơi đùa với bé

(Dân trí) - Chơi đùa là một kỹ năng quan trọng giúp trẻ hình thành thói quen giao tiếp, đồng thời phát triển sự hứng thú với các đồ chơi. Dưới đây là những nguyên tắc quan trọng cha mẹ nên biết khi chơi với trẻ.

Tỏ ra vui thích khi cùng bé chơi đùa

Quan trọng nhất khi chơi với bé là cha mẹ phải tỏ ra hứng thú. Nếu thấy cha mẹ chơi một cách miễn cưỡng, bé sẽ có suy nghĩ tiêu cực rằng “chẳng lẽ chơi với mình lại chán ngắt như vậy”. Đây là điều hoàn toàn không nên tạo ra trong suy nghĩ của trẻ.

Dịu dàng với bé

Khi bạn hỏi bé những câu hỏi đơn giản, nhưng lại quan trọng, bé thường không muốn trả lời. Tuy nhiên nếu bạn hỏi bé với một giọng dịu dàng và nựng bé: “Con tên là gì? Con bao nhiêu tuổi? Con đang sống ở đâu?”, bé sẽ tỏ ra thích thú khi trả lời về mình.

Khen đúng lúc

Khi bé làm được điều tốt đừng ngại ngần khen bé. Với những trò chơi phát triển và đồ chơi lắp ráp, bạn hãy tỏ thái độ khuyến khích: “Con giỏi lắm, mẹ đã làm được, con hãy thử làm như mẹ xem. Mẹ rất vui nếu con làm được như mẹ”. Và bạn đừng quên vỗ tay khuyến khích trẻ hành động.

Phát triển trí tưởng tượng ở bé

Có rất nhiều định hướng sáng tạo có thể phát triển ở trò chơi nặn hình. Bé sẽ tỏ ra rất thán phục nếu từ một mẩu đất nặn thành hình con cún, và từ con cún lại nặn thành hình cây nấm…

Bạn có thể vận dụng hội hoạ để dạy bé biết cách tưởng tượng. Hãy hỏi xem bé đang vẽ cái gì. Nếu bé không trả lời được, hãy đưa ra những giả thuyết gợi ý cho bé.

Không phân biệt các trò chơi

Không nên phân biệt các trò chơi chỉ dành cho bé gái hay bé trai: búp bê, ôtô hay xếp hình… Tránh bắt các bé trai chỉ được hạn chế chơi các đồ thuộc về kỹ thuật. Lý do là khi chơi búp bê, các bé thường có xu hướng đồng nhất mình vớ nó. Bé sẽ tưởng tượng khi cho búp bê đi trên ôtô, cho búp bê ngủ hay tắm…

Mang lại cho bé niềm vui thích nhất

Ví dụ như bé muốn chơi các đồ chơi về ôtô, máy móc, hãy vừa chơi, vừa trò chuyện với bé: Ôtô thì như thế nào, nó có thể đi đến đâu. Khi thích chơi một trò nào, bé nhận biết được nhiều hơn về các vấn đề liên quan đến trò chơi đó.

Đồ chơi cần được xếp gọn gàng

Tốt nhất là hình thành thói quen này cho bé trước 4-5 tuổi. Khi nào hết giờ chơi, hãy hướng dẫn bé xếp đồ vào giỏ, hộp.

Tạo mong muốn được chơi

Khi bạn mua cho bé một món đồ chơi quá phức tạp hoặc bé không thích, hãy tạm thời đưa nó cho một người bạn hàng xóm của bé, hoặc cất ở một vị trí nào đó mà bé thường nhìn thấy. Chính điều đó sẽ tạo cho bé mong muốn được chơi đồ chơi này.

Đồ chơi phong phú và đa dạng

Các đồ chơi khác nhau có tác dụng giúp bé phát triển toàn diện. Đặc biệt bạn nên chú ý đến các trò chơi liên quan đến âm nhạc, nghệ thuật, toán học, ngôn ngữ, địa lý. Hãy giúp bé làm quen với những khái niệm bé chưa biết. Tuy nhiên, bạn cần tính đến sự phù hợp của đồ chơi với lứa tuổi của bé.

Trò chơi độc lập

Không nên tỏ ra vội vàng và buồn phiền khi bé không thích tự chơi một mình. Tốt nhất, bạn nên hướng dẫn bé chơi, chắc chắn bé sẽ học được cách chơi, từ đó rèn được tính độc lập.

Hãy cứ để con khóc!

(Dân trí) - Bé con nhà bạn hơi một tí là khóc, mẹ chỉ bảo là dè chừng kẻo ngã, bé đã khóc ầm lên như thể bị ngã đau rồi. Cháu đã đòi gì là phải có ngay, nếu không sẽ là màn “khóc + hét +ăn vạ…”. Đôi khi, điều bạn phải làm đơn giản chỉ là: hãy cứ để con khóc đi!

Vì sao ngã không đau, bé yêu vẫn khóc?
Chủ nhật trước, mẹ đưa Bin đến nhà chị bạn chơi. Đang chơi đùa cùng Nam - con chị bạn - Bin bị ngã, khóc ầm lên. Cả nhà cuống quít, xúm lại, lo lắng nhìn vào tay Bin chỉ vết thương: chẳng thấy gì cả. Nam ngơ ngác: “Em ấy chỉ ngã nhẹ thôi, có đau đâu, sao khóc to vậy?”

Khi hai bà mẹ làm bếp, nói chuyện với mẹ Bin, chị bạn hiểu ngay ra sự việc. Thì ra, thấy con nghịch ngợm, hay chạy nhảy, mẹ Bin không ngớt nhắc con: “Coi chừng kẻo ngã con”, làm cho cậu bé đôi khi chưa ngã đã khóc. Bin bị ngã, xây xước một tí, mẹ đã chạy đến ngay, suýt xoa : “Chắc là con đau lắm”. Thế là, Bin… đau thật, oà lên khóc, làm mẹ dỗ dành mãi.

“Thế em biết làm thế nào, con ngã em lo, em thương lắm!”- mẹ Bin phân trần. “Nếu con chỉ bị ngã nhẹ thôi, không có gì nguy hiểm, em cứ để con khóc đi, khóc chán, cháu sẽ tự đứng dậy, tiếp tục chơi. Cần phải để cho con thấy rằng, khóc cũng không bớt đau, và ngã thế cũng..bình thường thôi, lẽ ra…không cần phải khóc”- chị bạn trả lời.

Càng nghĩ, mẹ Bin càng thấy chị bạn nói đúng, dường như Bin hơi tí là khóc, hay nũng nịu là do mẹ lúc nào cũng lo lắng, dỗ dành dù biết bé chẳng bị làm sao cả. Có lẽ, mẹ Bin phải thay đổi thôi, cứ thế này, lớn lên, làm sao Bin tự lập, mạnh mẽ và dũng cảm như bố Dũng của Bin được?!

Khóc và chiến lược “ăn vạ”, bé được gì?

“Con muốn ăn kẹo, con muốn búp bê Babie mới, con muốn đi công viên chơi cơ…”. Thường thì, sau những câu “con muốn” mà bố mẹ chưa kịp đáp ứng, bé Mai sẽ lăn đùng ra nhà, ăn vạ, mặt đỏ bừng, kêu khóc, bất kể lúc nào, ở đâu. Mẹ Mai rất bực mình, xấu hổ với khách, bố Mai thấy con gái yêu khóc thì thương quá, thế là cả hai dỗ dành: “con nín khóc đi, mai mẹ sẽ mua búp bê cho con nhé”. Thế là Mai im ngay, lại dễ thương ngoan ngoãn, tíu tít chơi đùa. Cô bé đã đạt được mục đích, với “chiến thuật” khóc và ăn vạ của mình.

Nhiều bố mẹ, rất sợ… con khóc, thấy con khóc là mủi lòng, đáp ứng ngay mọi đòi hỏi của con. Như thế vô tình dạy con rằng, “nếu con thích gì, cứ khóc đi, con sẽ đạt được điều con muốn”. Trẻ con rất nhạy cảm, rất biết “lợi dụng” những điểm yếu của người lớn, chúng sẽ sử dụng những cơn giận, kêu khóc cố ý để đạt được mục đích.

Nếu bố mẹ chiều theo con mọi thứ, kết quả là họ “đào tạo” được những cô bé, cậu bé giỏi khóc, ra lệnh, dẫm chân, ăn vạ, muốn gì được nấy, coi bố mẹ như nô lệ. Những đứa trẻ luôn có được mọi thứ khi con nhỏ, lớn lên sẽ là những người ích kỉ, không biết thích nghi trước những thất bại, khó khăn, không bao giờ hài lòng với những gì mình có, làm sao có thể hạnh phúc?

Bố mẹ phải làm gì?

Đôi khi, trước những cơn giận dữ, vòi vĩnh, kêu khóc của con, điều bố mẹ nên làm chỉ là: hãy cứ để con khóc đi, không dỗ dành, không đáp ứng điều gì hết. Như thế, cháu sẽ biết rằng, khóc sẽ không được giải quyết được gì cả, con sẽ không có được điều con muốn.

Hãy nói rõ với con rằng bố mẹ sẽ không nói chuyện với con khi con khóc, lúc nào khóc xong hãy vào gặp mẹ. Con của bạn sẽ hiểu rằng, muốn đạt được điều mình muốn, phải nói chuyện rõ ràng với bố mẹ, chứ không phải bằng cách ăn vạ hay kêu khóc.

Điều này nghe có vẻ đơn giản, nhưng không phải bố mẹ nào cũng thực hiện được. Một số ông bố bà mẹ yếu đuối, nhìn vào khuôn mặt đẫm nước mắt của con yêu là không thể kìm lòng được, không muốn làm con thất vọng. Họ ngại nói không với con, cảm thấy có lỗi khi phải từ chối con điều gì đó. Họ nghĩ rằng “dù sao con cũng chỉ là trẻ con, chiều con một tí, không sao cả” mà không biết đến những hậu quả sau này, khi con lớn lên.

Đôi khi, bố mẹ phải học cách từ chối con một cách cương quyết, để con thấy rằng, không phải lúc nào cũng có được mọi điều con muốn, để con biết trân trọng những gì con có. Hãy giúp con biết kiềm chế niềm ham muốn, biết thất vọng để sau này, cháu sẽ là một đứa trẻ nghị lực, tự chủ, vững vàng trước những khó khăn, thất bại trong đời. Lúc đầu, con của bạn sẽ khóc, khóc nhiều, nhưng sau này cháu sẽ được hạnh phúc, sung sướng. Đó chẳng phải là điều bạn mong muốn sao?!

Nói chuyện với con về vấn đề giới tính

Hãy cho con thấy, cha mẹ chính là những người bạn đáng tin cậy nhất.

(Dân trí) - Tuy đây là một vấn đề khá nhạy cảm và không phải cha mẹ nào cũng dễ dàng mở lời, nhưng không bao giờ là quá sớm khi nói chuyện với con cái về vấn đề giới tính. Dưới đây là một số lời khuyên dành cho các bậc cha mẹ.
1. Hiểu biết cơ bản

Em bé từ đâu tới? Bạn hãy giảng giải cho con của bạn biết. Con bạn nên được biết những thông tin sự thật về giới tính. Ở tuổi này, con bạn thường nghe thông tin và trao đổi với bạn bè cùng trang lứa. Nếu bạn không cung cấp cho con những thông tin bổ ích, con bạn sẽ có cách hiểu sai lầm.

2. Nói về những hình ảnh cơ thể

Trong giai đoạn tuổi teen, con bạn luôn quan tâm rất nhiều về sự thay đổi của cơ thể. Hãy cho con bạn biết đó là chuyện bình thường. Khi con bạn lớn lên sẽ có sự thay đổi của cơ thể. Bạn có thể kể chuyện về bạn khi bạn ở tuổi con bạn hiện nay. Những hình ảnh về cơ thể khi lớn lên sẽ giúp cho con bạn hiểu và nắm bắt thông tin dễ dàng.

3. Bàn luận xung quanh vấn đề hậu quả của tình dục

Theo quy luật của tự nhiên, khi lớn lên con bạn sẽ phải cưới vợ, cưới chồng và có con. Em bé là một điều kì diệu của tạo hóa. Nhưng con bạn sẽ gặp khó khăn rất lớn khi mang thai ở tuổi quá trẻ. Bạn hãy chia sẻ tình cảm với bọn trẻ khi nói về vấn đề này. Hãy cung cấp cho con kiến thức về sự mang thai và các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục.

4. Đưa ra những viễn cảnh sau này

Thật hữu ích cho tuổi teen nếu bạn cung cấp cho chúng những thông tin cả về con trai lẫn con gái. Con bạn sẽ có cái nhìn bao quát. Mẹ có thể nói với con gái và bố nói chuyện với con trai, sẽ thuận lợi hơn. Có thể bạn không cảm thấy thoải mái và con bạn cũng xấu hổ, nhưng đó là một việc bạn nên làm. Cố gắng giữ cho cuộc nói chuyện của bạn với con một cách thoải mái và có thêm sự hài hước. Có thể bạn sử dụng những quyển sách dành cho cha mẹ để tham khảo.

5. Nói với con bạn rằng cánh cửa luôn mở

Điều quan trọng là bạn nên khuyến khích con hỏi bất cứ điều gì mà chúng băn khoăn, tò mò về giới tính và bạn chính là người tin cậy để cung cấp thông tin. Hãy cho con biết bạn luôn sẵn sàng lắng nghe và chia sẻ với con mọi điều.

Huyền thoại về Cụm tình báo H.63 anh hùng

Kỳ 8: Hạnh phúc của chiến sĩ tình báo?

(VietNamNet) - Mải lo làm cách mạng, đến khi gần 40 tuổi mà vẫn chưa lấy chồng, mẹ cô sốt ruột lắm. Bà cụ suốt ngày làu bàu: “Không lo mà lấy chồng đi, mày chỉ giỏi thờ mấy thằng Việt Cộng thôi sao?”. Tụi sinh viên Sài Gòn tán tỉnh cô hoài không đổ, ức quá bèn dựng chuyện cô là “con gái nhà giàu làm cao, sống mà trái tim không có”. Cô cười, hai mắt ngấn lệ. Trời ơi, nếu không có trái tim, chẳng bao giờ đồng đội của cô có thể sống sót.
>> Kỳ 7: Sống giữa lằn ranh>> Kỳ 6: Giữa lòng địch để tang Bác Hồ>> Kỳ 5: Cứu đồng đội bằng cách... chia lửa về nhà>> Kỳ 4: Mỹ nhân của cố vấn Hải quân Mỹ!>> Kỳ 3: Đồng đội, duyên phận và những ám ảnh cuộc đời>> Kỳ 2: Tiểu thư Thành đô sống như... tiểu thuyết>> Kỳ 1: "Hoa trong tuyến lửa"
Tự rút lui để giữ an toàn cho đồng đội

Năm 1970, đang trong giai đoạn tạo được niềm tin vững chắc tại Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hoà, cô nhận lệnh phải rút về chiến khu, để đảm bảo an toàn cho Phạm Xuân Ẩn. Hơn 15 năm đào tạo và nỗ lực, đến giờ Phạm Xuân Ẩn đã trở thành ký giả nổi danh, đã chui sâu leo cao vào lòng địch.

Lúc này, mọi mối quan hệ của Phạm Xuân Ẩn phải được giữ gìn cẩn thận, bởi ông đã là một trong những nhà tình báo chiến lược của miền Bắc Việt Nam. Hơn nữa, bây giờ đã chuyển sang giai đoạn căng thẳng, sau Tết Mậu Thân, bất kể ai cũng có thể chết nếu để sơ hở dù nhỏ nhất.

Những lúc cảm thấy cô đơn trong trận tuyến một mình, Phạm Xuân Ẩn đã nhiều lần tự ý đến thăm gia đình Tám Thảo, để tìm ở đấy chút cảm giác bình yên. Nhưng hành động tưởng nhỏ đó lại vô cùng nguy hiểm.

Không thể để một sơ suất nào nguy hại đến ông và đến hàng chục giao liên đang ngày đêm làm việc trong im lặng, Tám Thảo lập tức tuân lệnh. Nhưng nếu đi có nghĩa là cô phải chia tay với gia đình, xa rời cuộc sống sung túc trong nội thành, ra chiến khu sẽ khổ...

Song cái đó thì có nghĩa lý gì? Tổ chức đã quyết, và hạnh phúc của người lính không có gì hơn: cô rút lui để giúp cho cách mạng tiến lên thêm bước mới.

Thiếu tướng Sáu Trí, lãnh đạo Phòng tình báo Miền, (VietNamNet sẽ viết tiếp về ông trong loạt bài sau) trong cuốn hồi ký tổng kết đời hoạt động tình báo của mình cũng dành những dòng ghi ơn trang trọng nhất khi viết về Tám Thảo: “Để bảo vệ lưới tình báo đặc biệt 2T, xoá nhiệm vụ cơ cán đi sâu của chị Tám Thảo đang làm phiên dịch cho cố vấn Mỹ trong Bộ Tư lệnh Hải quân nguỵ… Chúng tôi tiếc phải rút chị ra cứ vì chị Tám đang phát huy tác dụng cao.

Chị là một nữ điệp viên duy nhất của Phòng tình báo Miền. Chúng tôi có ý định nhân điển hình của chị Tám để khai thác khả năng phong phú và quý giá của phụ nữ miền Nam trong công tác tình báo”.

Mệnh lệnh này được đưa ra trong hội nghị tình báo tháng 9/1969.

Hạnh phúc trong nửa vòng tay

Sau khi rút ra ngoài rừng, cô được gặp người em trai của “bà tư sản Bảy Huê” - người phụ nữ từng giúp cô suốt cái thời làm giao liên cho ông Ẩn.

Trong nhà cô, ngoài bàn thờ ra, ở tất cả các vị trí trang trọng khác đều treo ảnh ông, như một cách để giữ lại hạnh phúc cuối đời.
Thuở mới quen ông, cô cũng chưa có tình yêu ngay. “Đám cưới của tôi là do... Đảng gợi ý”, bởi cô đã quá tuổi thanh xuân rồi. Những người chỉ huy của cô, ông Sáu Trí, ông Tám Mỹ lo lắm, tìm cách mai mối giúp cô. “Đảng lo cho em nên giới thiệu em với đồng chí đó. Ba em kén cho em cũng không bằng Đảng kén cho em đâu, vì Đảng biết Đảng viên nào xứng đáng với em mà”.

Nghe vậy, Tám Thảo đồng ý gặp mặt, rồi 7-8 tháng sau, hai người nên duyên. Ngày cưới, cô tiểu thư vốn quen được chiều chuộng chỉ băn khoăn mỗi một điều: không hiểu ông có “kẹo kéo” hay không, bởi tính cô giống ba, vốn quen rộng rãi, đại lượng với tất cả mọi người.

Lấy nhau rồi, cô mới bắt đầu mở lòng mình sau suốt gần 40 năm khép kín. Cô kể cho chồng nghe về mối tình đầu thuở đôi mươi không thành. Nghe xong, ông cảm động lắm. Người chiến sĩ tình báo nửa đời phải sống trong câm lặng và những lời đồn cay nghiệt, nay đã có thêm một cái tôi để chia sẻ.

Tuy nhiên, kết hôn năm 39 tuổi, cộng với sự căng thẳng thời sống trong nội thành và sự gian khổ khi ra ngoài căn cứ, Tám Thảo chưa bao giờ được làm mẹ. Điều duy nhất an ủi cô chính là niềm hạnh phúc có được một người chồng thương yêu, tin tưởng cô hết mực.

Ngay cạnh phòng của cô là một khu vườn nhỏ, đầy hoa và đầy nắng. Ở đây không có dòng sông, không có xuồng nhỏ, nhưng những bông hoa tự tay cô trồng luôn nhắc cô nhớ về những ngày đầu tiên của chuỗi hành trình cuộc đời: giờ đã đẹp hơn cả tiểu thuyết!
Đầu năm 1973, khi vòng đàm phán 4 bên bắt đầu vào hồi kết, cô tình cờ gặp lại... mối tình đầu tiên. Ông là thành viên tham gia phái đoàn đàm phán. Được trở lại Nam sau 20 năm xa cách, ông bắt đầu tìm cô.

Nhưng làm sao tìm được khi đến chính tên cô cũng thay đổi bao lần: từ Mỹ Nhung cho đến Mỹ, Tuyết chị (Sáu Tuyết), rồi Yên Thảo (Tám Thảo)... Chưa kể đến chuyện lòng người, biết ai còn nhớ tới ai. Nhưng ông vẫn quyết tâm dò tìm cho bằng được.

“Ngày gặp nhau, cũng cảm động dữ lắm. Hai chục năm rồi còn gì”. Thương nhau, nhưng giờ đã mỗi người mỗi phận. Ông có gia đình, cô có hạnh phúc. Trước giây phút gặp nhau, không biết có khi nào ông băn khoăn rằng liệu cô tiểu thư Sài Gòn năm xưa có thể kiên cường vượt qua mọi thử thách cam go để theo đuổi tình yêu lớn nhất trong đời: yêu Tổ quốc, hay không? Hay tình yêu với cuộc sống nhung lụa của mình sẽ làm cô gục ngã?. Hai mươi năm gặp lại, hẳn ông đã rất tự hào. Người con gái ông yêu đã thực sự viết nên những trang tiểu thuyết đẹp về chính cuộc đời mình.

Sau này, cô cũng kể lại buổi gặp gỡ cho chồng nghe. Thậm chí, cô còn không quên chuyện vào một ngày nắng đẹp, cô từng nhận liền lúc 2 lá thơ gửi về: một của chồng và một của ông. Nghe xong, chồng cô lại càng thấy thương và kính trọng vợ mình hơn nữa.

Đến bây giờ, ở tuổi 75, cô Tám Thảo sống một mình. Vào đúng độ con người thực sự cần hơi ấm mỗi khi chiều buông thì cô lại lẻ bóng. Trong nhà cô, ngoài bàn thờ ra, ở tất cả các vị trí trang trọng khác đều treo ảnh ông, như một cách để giữ lại hạnh phúc cuối đời.

Sống một mình, nhưng trái tim cô vẫn luôn biết yêu thương như thuở nào, yêu từ những bông hoa nhỏ, những kỷ vật xưa cũ cho tới thương những người bạn già, những đứa cháu láu lỉnh mãi ngoài Hà Nội.

Phòng ngủ của cô giờ không có dáng vẻ khuê phòng thuở xưa, nhưng nét sang trọng thì vẫn ẩn trong từng chi tiết, từ chiếc gối phảng phất hương thơm cho đến bức hình gia đình ấm cúng. Cô đã đi gần hết cuộc đời, đủ thấy cái hiểm nguy mà không còn sợ hãi, đủ kinh qua chuyện lớn mà coi như chuyện nhỏ, đủ thấy sự cao cả trong những con người thầm lặng, và đủ yêu những con người vĩ đại mà giản dị vô cùng. Thế nên, cuộc sống của cô giờ đã nhẹ nhàng lắm.

Ngay cạnh phòng của cô là một khu vườn nhỏ, đầy hoa và đầy nắng. Ở đây không có dòng sông, không có xuồng nhỏ, nhưng những bông hoa tự tay cô trồng luôn nhắc cô nhớ về những ngày đầu tiên của chuỗi hành trình cuộc đời: giờ đã đẹp hơn cả tiểu thuyết!

* * *
… Mùa thu năm 1960, Hai Trung thông qua Tám Thảo để móc nối liên lạc với tổ chức, với yêu cầu “chỉ tiếp xúc với một người mà Trung đã từng biết”. Cuối năm 1960, trực tiếp Hai Trung lái xe, Tám Thảo dẫn đường ra căn cứ, để Hai Trung gặp lại người đã từng ăn với ông bữa cơm chiều muộn khi giao nhiệm vụ từ 8 năm về trước: ông Cao Đăng Chiếm.

Bắt đầu từ đây, “câu chuyện tuyệt vời về một điệp viên đã thách thức nước Mỹ" như cách mà nhà báo kỳ cựu của tờ Le Monde (Pháp) Jean Claude Pomonti nói về Trần Văn Trung, được viết nên, như một huyền thoại.

Thứ Năm, 23 tháng 8, 2007

Huy tròn 17 tháng

Hôm nay con được 17 tháng rồi. Để mẹ kiểm tra nhé:

Cân nặng: 12kg (hic, vẫn thế)
Chiều cao: chưa kịp đo
Thóp sắp liền hẳn rồi nhé
Tình trạng răng lợi: 14 chiếc (có 4 răng hàm rồi, sắp nhai tốt rồi...)
Tình trạng ngôn ngữ: hic, vẫn nhí nhố líu lo chưa rõ gì, ai đấy? (hỏi liên tục), bà ơi (chưa rõ), ba giờ (hic, ko hiểu tại sao lại biết 3 h),..., hỏi cái gì cũng ừ hừ, ừ hừ... hiểu hết rồi nhưng chỉ chưa biết nói thôi.

Nhưng:
Hay ỉ ôi, mè nheo, khóc ko ra nước mắt
Ở nhà với bà thì ngoan, bố mẹ về thì hư
Không thích chơi với các bạn bằng tuổi, chỉ thích các anh chị lớn hơn (thích chơi với chị Hương, hà hà..)

Huy đòi ăn cơm rồi...

Dạo này Huy không thích ăn cháo nữa, cứ nhìn thấy cháo và sữa là chạy, bữa nào ăn cũng khóc lóc ỉ ôi, mẹ bực mình lắm, làm mẹ hay quát mắng và giơ roi ra. Mấy hôm nay mẹ đổi bữa cho Huy, bữa thì mì tôm, bữa thì bún, thậm chí còn cho ăn cơm. Khổ nỗi, cu cậu lại thích cơm và mấy món đó. Háo hức là đằng khác. Cứ ăn hết lại lấy tay chỉ vào bát đòi ăn nữa. Ăn một bữa hết lưng bát cơm người lớn ăn và thêm cả canh nữa. Thôi thì con không ăn cháo thì ăn cơm cũng được miễn là con ăn. Mẹ chỉ lo con ăn cơm sớm quá sẽ không tốt cho dạ dày. Vài hôm nữa mẹ lại cho con quay về ăn cháo nhé.

Ngày...

Bà ngoại Huy ốm mấy ngày nay. Bà bị viêm họng, cúm đau người sau đó thì tức ngực. Nhưng mà bà gan lì không chịu uống thuốc gì. Chỉ đồng ý uống thuốc cốm của Huy. Hic, bà thương con thương cháu nhưng không nghĩ đến bản thân. Mình muốn đưa bà đi kiểm tra tim mạch xem thế nào vì cũng nghe bà nói bà bị đau lâu nay. bà chỉ sợ đi khám tốn kém nên từ trước đến giờ toàn chối không chịu đi. Mình liên hệ với Châu nhờ hỏi bác sĩ tim mạch rồi nhưng bà kiên quyết không đi, nói rằng mệt lắm không đi được, lần lữa chờ khi nào khỏe mới đi. Nghĩ đến lúc mình ốm đau, mẹ chăm sóc lo lắng, giờ mẹ ốm mình ko làm được như vậy cũng thấy chạnh lòng lắm. Người ta bảo "Nước mắt chảy xuôi" ngẫm nghĩ mãi cũng thấy hợp lý và hoàn toàn có lý. Mai rồi khi mình già đi, thì Huy và em nó cũng phải chăm lo cho các con nó giống mình chăm con bây giờ. Lại nước mắt chảy xuôi. Bố mẹ chẳng bao giờ trách móc mình về việc này cả nhưng là con mình thấy ko làm tròn nghĩa vụ của người con, bứt rứt và trăn trở lắm. Mong làm sao bố mẹ khỏe mạnh và sống vui vẻ là mình thấy vui rồi.

Huyền thoại về Cụm tình báo H.63 anh hùng

Kỳ 7: Sống giữa lằn ranh

(VietNamNet) - Nghề tình báo có những điều rất đặc biệt. Sống với mưa, anh phải là hạt mưa. Sống trong nắng, anh lại là giọt nắng. Nhưng dù bão táp có quật dữ đến đâu thì cội rễ nguyên sơ trong mỗi giọt mưa nắng ấy vẫn còn. Giữa bủa vây súng ống trên đất Sài Gòn nhiều cạm bẫy, tại sao những con người như Phạm Xuân Ẩn, Nguyễn Thị Mỹ Nhung vẫn có thể sống an toàn? Đơn giản, bởi họ luôn giữ cái cội rễ nguyên sơ nhất: tính người và chất người Việt Nam.

>> Kỳ 6: Giữa lòng địch để tang Bác Hồ>> Kỳ 5: Cứu đồng đội bằng cách... chia lửa về nhà>> Kỳ 4: Mỹ nhân của cố vấn Hải quân Mỹ!>> Kỳ 3: Đồng đội, duyên phận và những ám ảnh cuộc đời>> Kỳ 2: Tiểu thư Thành đô sống như... tiểu thuyết>> Kỳ 1: "Hoa trong tuyến lửa"

Thế nào Việt Cộng?

Những ngày sống trong lòng địch, Tám Thảo luôn được các đời thiếu tá tình báo Mỹ yêu mến. Dù mang dáng vẻ rất “chảnh” của một tiểu thư con nhà giàu, nhưng chưa bao giờ cô tỏ ý đành hanh, ăn hiếp bất kỳ ai trước.

Sống giữa lằn ranh mong mang, Mỹ Nhung vẫn giữ được an tòan vì luôn giữ được cái cội rễ nguyên sơ nhất: tính người và chất người Việt Nam!
Những cú đập bàn, bạt tai cô chỉ “tung ra” khi biết có thể rơi vào vòng nguy hiểm, bởi trong mắt chúng, Việt Cộng là... cái gì đó... rất bí hiểm. Nếu cô lập luận sắc sảo - thế nào cũng bị nghi là Việt Cộng. Nếu cô chăm chỉ làm việc - Việt Cộng đây. Còn nếu cô tuân lệnh làm tròn nhiệm vụ - không ai khác ngoài Việt Cộng.

Hồi Phạm Xuân Ẩn đi học ở Mỹ, chỉ vì... học giỏi quá mà có lần bà giáo Mỹ phải soi mục kỉnh lên: “Mày là Việt Cộng hay sao mà học giỏi thế?”. Dẫu chỉ là câu hỏi chơi chơi, nhưng kể từ đó, Phạm Xuân Ẩn... dừng ngay chuyện chăm chỉ học hành.

Ông hiểu ngay, với người Mỹ, ông cần ứng xử như ông là chính họ: thích nói dóc, hay bông đùa, nói ngắn gọn nhưng luôn luôn thực dụng nhất.

Kết thân một thời gian, một hôm, Tám Thảo hỏi thẳng “sếp” Mỹ: “Này, ông có biết tại sao các ông sẽ thua không?”. Trố mắt ra nhìn, viên thiếu tá Mỹ ngạc nhiên hỏi: “Sao cô nói vậy?”.

Cô lạnh lùng trả lời: “Các ông thua vì các ông là người ngoại quốc. Các ông đến đây, không dành thời gian nghiên cứu, chỉ đến, ra lệnh, rồi về. Trong khi Việt Cộng là con đẻ ở đây. Họ sống chết ở đây, họ giành độc lập cho họ chứ họ không có xâm lăng ai. Do vậy, họ có cơm ăn cơm, có cháo căn cháo, có súng đánh bằng súng, có cuốc đánh bằng cuốc. Họ có thể chiến đấu từ đời này sang đời kia, ông, cha, con, cháu, miễn khi nào các ông rời khỏi hẳn quê hương họ. Còn các ông chỉ sang đây 18 tháng, 6 tháng đầu mới tìm hiểu việc, 6 tháng sau mới bắt đầu làm, 6 tháng cuối thì đi nghỉ với vợ, hết HongKong rồi lại Hawaii... Trong khi đó, Việt Cộng thì chỉ có mỗi một mục đích là làm sao có được độc lập. Tôi hỏi, nếu phải vậy thì ai sẽ thua?”

Viên thiếu tá nghe xong, vã mồ hôi hột, nhưng vẫn không quên chất vấn “sao cô nói giống giọng Việt Cộng thế?” Cô lại trả lời: “Tôi cũng là người Việt Nam nên tôi hiểu họ nghĩ gì. Đã làm việc cho các ông thì tôi phải tìm hiểu kỹ về Việt Cộng. Nhưng các ông không bao giờ nghe cả, các ông lúc nào cũng tự đắc là ông lớn mà thôi...”

Một lúc sau, viên thiếu tá gật gù, bởi chính bản thân cậu chàng cũng đâu quan tâm tới cuộc chiến. Ở bên Mỹ, cha cậu là giảng viên đại học, mẹ dạy đàn piano nên cậu chàng cũng có máu mê văn chương, nghệ thuật lắm.

Vì phải sang Việt Nam làm nghĩa vụ nên suốt thời gian ở đây, cậu chàng không bao giờ dám ra ngoài một mình, chỉ thích ngồi đàm đạo văn chương với Tám Thảo. Có việc gì cần đi đâu, cậu chàng đều nhờ Tám Thảo giúp, vì cô nói năng, lập luận vững vàng, đến sĩ quan ở đây còn phải kiềng nể.

Sau này, trong tài liệu Những thất bại của tình báo Mỹ trong chiến tranh Việt Nam do CIA công bố, một trong những lý do thất bại mà Mỹ phải công nhận chính là vì Mỹ đã quá chủ quan và tự kiêu về uy lực của mình.

Rất nhiều sĩ quan tình báo Mỹ được cử sang chiến trường Việt Nam mà không thèm học tiếng Việt. Họ thậm chí không cần biết người Việt là ai, văn hoá Việt Nam là thế nào, bởi Mỹ luôn số một.

Trong khi đó, ngay từ lúc người Pháp còn chưa chịu chấp nhận là Mỹ sẽ thế chân tại Đông Dương, những nhà lãnh đạo của Việt Nam đã nhanh chóng gửi Hai Trung sang Mỹ học tập.

Họ đã nhìn thấy rõ kẻ thù của đất nước ngay khi đối phương chưa hoàn toàn xuất đầu lộ diện.

Những giờ tự học

Sống thẳng thắn, không sợ bất kỳ dèm pha nào, nhưng nhiều lần Tám Thảo vẫn phải nếm những cái bẫy điều tra, thậm chí còn bị công khai thẩm vấn qua máy phát hiện nói dối. Song bản lĩnh và trí tuệ luôn giúp cô giành chiến thắng trước cặp mắt cú vọ và những cỗ máy tâm lý hàng đầu.


"Tiểu thư" Tám Thảo hồn nhiên nhớ lại những kỷ niệm với viên thiếu tá hải quân mê văn chương
Thậm chí sau này, một vài người mới đến còn tỏ ý ngờ cô là Việt Cộng, nhưng chính những người làm việc lâu năm với cô lại... gạt phắt ngay: “Cô mà là Việt Cộng thì cả cái Bộ Tư lệnh Hải quân này cũng là… Việt Cộng hết”.

Làm việc một thời gian dài, Tám Thảo cũng cảm mến viên thiếu tá mê văn chương nọ. Kém cô gần 8 tuổi nên có chuyện gì khó khăn trong cuộc sống riêng, cậu lại tìm đến Tám Thảo. Đôi khi, chỉ vì một câu thơ hay, một thoáng tiết trời đẹp, cậu thiếu tá lại mời cô đi uống cà phê, nói chuyện về gia đình, về cuộc sống.

Trong chiến tranh, là đối thủ, nhưng ở mỗi bên chiến tuyến, họ lại đều là những con người. “Anh là người Mỹ, tôi là người Việt, tại sao anh có quyền mang súng bom đến đất nước này để nói rằng nước Mỹ đang đem lại... tự do? Tôi phải cầm súng lên chính là vì lẽ đó. Nhưng khi thay bỏ quân phục, anh cũng là con người. Anh có cha, có mẹ, có những giấc mơ về một gia đình hạnh phúc. Nào ai muốn chính gia đình mình phải ly tán, đổ máu, tù đày? Chỉ khi phải trực diện với nỗi đau nào đó, người ta mới hiểu được giá trị của lương tri con người hay sao? Nếu anh là người tốt, anh có thể trở thành bạn tôi. Nhưng nhìn những chuyến hàng chở đạn mà anh ký nhận hằng ngày, nhìn những người đồng đội của tôi bị tra tấn trong hầm tối, bị thủ tiêu, tôi không thể không nói anh là kẻ thù được” - Tám Thảo lý giải với lòng mình, trong những lần đi cùng thiếu tá Mỹ mê văn chương.

Được huấn luyện tinh thần cách mạng từ khi 16 tuổi, thế nhưng không biết bao lần Tám Thảo cũng phải trăn trở đấu tranh với chính mình như thế. Có những lúc căng thẳng quá, cô phải tìm đến sự che chở của ba. Cô hạnh phúc vì có ba bên cạnh, nhưng càng hạnh phúc bao nhiêu thì cô càng hiểu rằng đang có những gia đình bất hạnh bấy nhiêu, bởi chỉ vì chiến tranh mà mỗi người mỗi ngả.

Năm 1968, Tảm Thảo kể, có một viên sĩ quan Mỹ cao lớn, đẹp trai đến Bộ Tư lệnh. Vừa chân ướt chân ráo về, cậu chàng dính ngay phải trận đánh khốc liệt Mậu Thân. Cô vẫo nhớ như in cảnh cậu chàng to cao lừng lững, ngồi sụp xuống ôm quả B40, núp bên chậu kiểng.


Bà Tám Thảo hồi tưởng lại những tháng ngày sống giữa lằn ranh giữa bạn và thù, chỉ một mình và chưa một lần vấp ngã

Nhìn thấy cô, nó kể chuyện nó có cái ảnh Việt Cộng, nhưng bảo “Cô đừng coi. Cô coi đêm về không ngủ được”. Nghe vậy, Tám Thảo hiểu ngay tấm ảnh đó là gì.

Suốt mấy hôm sau, những lời bàn tán về nhiều “tên Việt Cộng” bị đánh, bị tra xét dã man càng chà xát lên lòng cô nỗi đau mất nước. Cô ngồi nghe, ức muốn rớt nước mắt mà vẫn phải yên lặng, không hé răng một lời.

Thấy cô căng thẳng quá, tụi lính liền bảo: “Thôi cô về đi, đừng ngồi nghe làm gì cho tội thân”. Tám Thảo đứng dậy, xách túi ra về. Vào đến nhà, cô mới dám khóc.

“Chục năm theo nghề cũng giúp mình biết được ai tốt ai xấu, ai bạn ai thù. Về con người, ai cũng có những điều đáng quý. Nhưng về công việc, nếu đấy lại là kẻ thù thì mình phải chiến đấu, phải đuổi ra khỏi đất nước thôi”, cô nói.
Cái biên giới giữa bạn và thù cứ mong manh như thế, vậy mà Tám Thảo cứ đi suốt cả chục năm ròng: đi một mình mà vẫn thẳng người, không một lần vấp ngã.

Huyền thoại về Cụm tình báo H.63 anh hùng

Kỳ 6: Giữa lòng địch để tang Bác Hồ

(VietNamNet) - Đầu tháng 9 năm 1969, tin dữ bay về: Bác Hồ mất. Nữ chiến sĩ tình báo đã hơn 10 năm cận kề giữa sự sống và cái chết vẫn không thể tin rằng, trong đời mình cô lại từng khóc dữ đến thế. Bất chấp đang ở ngay trong lòng địch, cô vẫn hiên ngang mặc áo trắng để để tang Người.

>> Kỳ 5: Cứu đồng đội bằng cách... chia lửa về nhà>> Kỳ 4: Mỹ nhân của cố vấn Hải quân Mỹ!>> Kỳ 3: Đồng đội, duyên phận và những ám ảnh cuộc đời>> Kỳ 2: Tiểu thư Thành đô sống như... tiểu thuyết>> Kỳ 1: "Hoa trong tuyến lửa"

Đó là một ngày cô không thể nào quên. Buổi sáng cô đến sở làm. Vừa ngồi không bao lâu thì viên thiếu tá Mỹ Dave mới từ Mỹ đến Sài Gòn xông vào thông báo: “Ông Hồ đã mất”.

Tình yêu và niềm kính trọng Bác không thể không khiến Tám Thảo nghĩ ra cách để tang cho phù hợp với mình.
Dù đã quá quen với các kiểu tin sốc bất ngờ, nhưng chính trong khoảnh khắc đó, cô vẫn cảm thấy tim mình đứng sững lại.

Nhưng chỉ trong tích tắc sau, bản năng mách bảo cô phải giữ ngay lại bình tĩnh, bởi lúc xúc động là giây phút sơ hở nhất trong nghề. Quay mặt ngó lơ, cô đáp lại rất hờ hững: “Vậy hả?” rồi tiếp tục làm việc. Viên thiếu tá nhìn cô dò xét một lúc rồi cũng quay đi.

Mãi đến buổi trưa trở về, chỉ tới khi nhìn thấy ba và dắt xe vào hẳn trong nhà, cô mới dám oà lên nức nở: “Ba ơi, Bác mất rồi”.

Trong cả tháng trời sau đó, bất chấp sự theo dõi cảnh báo gắt gao, khắp nơi trong thành phố, đồng bào đã tổ chức truy điệu Bác, bằng cả hình thức công khai lẫn bí mật.

Ở nhà lao Chí Hoà, 600 anh chị em tù chính trị sáng nào cũng hát Quốc ca và làm lễ tưởng niệm Bác.

Tám Thảo kể, suốt mấy tháng trời sau ngày Bác mất, ngày nào cô cũng bận áo dài trắng đi làm.

Tại Ngã Bảy, anh chị em công nhân và các nghiệp đoàn quanh vùng đã chiếm trụ sở Tổng Liên đoàn Lao động để làm lễ tiễn đưa Người, còn giới công nhân xe buýt thì dành cả ngày và đêm mồng 9 tháng 9 để làm lễ truy điệu Bác.

Hàng loạt thanh niên, sinh viên Sài Gòn kính cẩn mặc niệm Bác trong tiếng hát trang nghiêm của bài "Hồn tử sĩ".

Tại vùng Hòa Hưng, 200 phật tử, nhân sĩ trí thức tập trung về chùa Khánh Hưng ngay sau giờ Hà Nội bắt đầu truy điệu. Bốn ngày sau, Thượng tọa Thích Pháp Lan - người đọc điếu văn trong buổi lễ - bị Tổng nha Cảnh sát gửi giấy mời lên thẩm vấn suốt 9 tiếng đồng hồ.

Nhiều nơi, cảnh sát Cộng hoà cũng biết các hoạt động tưởng nhớ Bác nhưng cũng đành phải làm lơ vì không dám xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của nhân dân (*).

Còn với Tám Thảo, ở vị trí của cô, buồn là... không được phép. Nhưng tình yêu và niềm kính trọng Bác không thể không khiến cô nghĩ ra cách để tang cho phù hợp với mình.

Cuối cùng, bằng trí thông minh và sự khéo léo, cô đã “qua mặt” được cả viên sĩ quan tình báo Mỹ đầy kinh nghiệm.

Cô kể, suốt mấy tháng trời sau đó, ngày nào cô cũng bận áo dài trắng đi làm. Dave thấy thế sinh nghi, liền vặn hỏi: “Sao dạo này cô hay mặc đồ trắng vậy?”.

Đã tính kỹ nên cô trả lời không chút đắn đo: “Nhà tôi bán vải lụa, mẹ tôi may cho tôi hàng trăm cái áo. Tôi muốn thử hết những chiếc màu trắng này rồi chuyển sang những chiếc màu khác xem sao”.

Dave nghe vậy tin ngay, bởi từ trước đến giờ, ai chẳng biết tiểu thư Mỹ Nhung đi làm chỉ để khoe giàu khoe sắc. Thậm chí, đã có thời cô là chủ đề bàn tán của không ít sĩ quan, bởi trong suốt cả năm đi làm với mức lương loại xoàng, cô chưa hề mặc... trùng một chiếc áo.

Sau này, khi đất nước đã giải phóng, trong những ngày đầu tiên ra lại Hà Nội, điểm đến của cô bao giờ cũng là vào Lăng Bác.

Một lần, hai lần... nhiều lần quá đến mức không thể nhớ, nhưng mỗi lần được viếng Lăng lại là một lần cô nhớ về chuyện chiếc áo trắng ngày xưa.

“Thực ra trong nghề đâu có được liều lĩnh làm như vậy, nhưng lúc đó mình thực lòng thấy đau khi Bác mất. Kẻ thù nó phải sợ người Việt mình vì mình có những người như Bác chớ? Lúc đó, dù không nói ra đâu, nhưng tụi lính chỗ cô cũng không dám chống lại đồng bào để tang. Tụi nó cũng buồn, nhưng không dám lộ ra vì sợ Tây nghi là Việt Cộng. Cứ nghĩ xem, người như ông Cụ mà mất, ai không khóc thương?”, đến giữa tháng 4/2007, Tám Thảo vẫn còn nhớ như in câu chuyện đó.

Tháng 5/2007, có dịp gặp lại cô ở Hà Nội, trên đường trở về thăm quê. Suốt câu chuyện dài ở Hồ Tây vẫn thấy cô rưng rưng nước mắt khi nhắc tới những ngày tháng trắng màu tang năm 1969.

Đứng ở quảng trường Ba Đình, đôi mắt cô sâu hun hút hướng vào Lăng Bác. Ở đó, người Cha già của dân tộc đang nằm, mà mỗi khi có dịp ra Hà Nội, cô không thể không dành thời gian ghé lại, chào Người.

Huyền thoại về Cụm tình báo H.63 anh hùng

Kỳ 5: Cứu đồng đội bằng cách... chia lửa về nhà

(VietNamNet) - Vừa mới ở rừng ra, người lính đặc công bắn hai tay hai súng bỗng chốc trở thành anh Tư trong gia đình người đẹp. Để tránh bị nhòm ngó, Tám Thảo nghĩ ra cách thỉnh thoảng mời sếp... về nhà chơi. Những chuyến thăm của viên thiếu tá Mỹ tới gia đình nhà tư sản bỗng nhiên tạo thành chiếc khoá an toàn cho ông thiếu tá Việt cộng.

>> Kỳ 4: Mỹ nhân của cố vấn Hải quân Mỹ!>> Kỳ 3: Đồng đội, duyên phận và những ám ảnh cuộc đời>> Kỳ 2: Tiểu thư Thành đô sống như... tiểu thuyết>> Kỳ 1: "Hoa trong tuyến lửa"

Sáng tình báo Việt cộng đưa đi, chiều tình báo Mỹ rước về

Trước ngày cô Tám Thảo xin cho Tư Cang về nhà, ba cô cũng nghĩ ngợi ghê lắm. Trong nhà vốn toàn các cô chưa lập gia đình, tiêu tiền kiểu tư sản, nay tự nhiên lại xuất hiện một anh lính ở rừng về, chưa biết hoạ phúc ra sao.

Tám Thảo, người phụ nữ nổi tiếng với việc sáng tình báo Việt cộng đưa đi, chiều tình báo Hải quân Mỹ rước về

Ông cụ vẫn còn nhớ, gần hai chục năm trước đó, ngày cô xin đi vào chiến khu làm cách mạng, sợ ba gặp khó khăn, cô liều bảo: “Con đi vào rừng không có nhà. Nếu ai làm khó dễ ba, ba cứ bảo là con mê thằng nào rồi theo nó bỏ đi Nha Trang, Đà Lạt nha. Vậy nên ba tức chuyện, ba từ con luôn, nói thế cho an toàn”.

Khác với mọi khi luôn gật đầu vì cưng chiều con gái, lần này, ông nhất định không chịu: “Đâu có được, con gái của ba, không bao giờ ba bêu tiếng xấu như vậy. Con cứ đi, để ba ở nhà tuỳ cơ ứng biến”.

Nhưng lần này, câu chuyện lại hoàn toàn ngược lại. Tám Thảo vẫn ở trong nhà, chỉ có điều, thêm một người đàn ông đến tá túc. Ngẫm ra, chuyện đó chẳng có vấn đề gì, tình thương của ông đối với cán bộ đã giúp ông gạt phăng hết ngại ngần.

Về ở với gia đình ông, “thằng Tư” sẽ bớt đi nhọc nhằn, nguy hiểm. Trong khi chiến tranh đang leo thang, tài liệu mật càng nhiều, nếu cứ đi đi về về thì sẽ còn nguy hiểm nữa.

Vậy nên không cần đợi cô thuyết phục, ông gật đầu đồng ý. Với vỏ bọc “anh rể thứ tư” mới trở về, từ hôm đó, cứ sáng ra, “anh Tư” đưa Tám Thảo đi làm. Chiều về, viên thiếu tá Mỹ lại chở cô về tận cửa. Bà con hàng xóm cũng có người tò mò, nhưng tiểu thư Mỹ Nhung nổi tiếng vừa đoan trang vừa kiêu kỳ nên chẳng ai dám lời ong tiếng ve.

Tiểu thư Mỹ Nhung từng nổi tiếng vừa đoan trang vừa kiêu kỳ đất Sài Gòn là vỏ bọc tốt cho Tám Thảo hoạt động trong lòng địch.
Một bữa, trên đường tới sở, tự nhiên nghĩ ra điều hay, cô kều tay nói giỡn với Tư Cang: “Anh Tư nè, em nghĩ đời mình cũng hay thiệt nghe. Sáng thì thiếu tá tình báo Việt cộng chở honda đi làm, chiều thì thiếu tá tình báo Mỹ xách bỏ lên xe jeep chở về. Anh bảo có ai được như vậy không?”.

Nghe cô cười khanh khách, ông thiếu tá Việt cộng cứ nghĩ mà xót xa. Khi ấy, cô đã gần 40 nhưng vẫn quyến rũ đến chết người. Bao nơi muốn mối lái, vậy mà cô cứ mải mê đi “làm Việt cộng”, chẳng hề tính đến hạnh phúc trăm năm.

Thời đó, có những lúc cũng có người gợi ý, sao hai người ở gần mà không cưới nhau đi, tạo luôn cái vỏ bọc hợp pháp cho an toàn? Nhưng cô chỉ điềm tĩnh bảo: Anh đã có vợ, còn chúng tôi lại chỉ là đồng chí, làm sao có thể yêu nhau theo cái kiểu lửa gần rơm lâu ngày cũng bén được vậy?

Cứ như thế, suốt từ năm 1966, trong ngôi nhà tư sản toàn tiểu thư xinh đẹp, có một ông nông dân chính hiệu ra vào. Với gia đình cô, chưa bao giờ ông là người lạ, dù cho lối sống đã quen kham khổ của ông rất khác xa với gia đình.

Tình quân dân, tình đồng chí lúc này là trên hết, vì có gì lạ đâu: cô và ông đều là người Việt, đều đang chiến đấu cho Nam Bắc một nhà!

Hai phát súng sinh tử

Đêm 31/1/1968, cuộc tổng tiến công Mậu Thân bắt đầu. Đã biết qua từ trước nên cả gia đình đều sẵn sàng chuẩn bị tinh thần.

Trước đó, theo yêu cầu của cấp trên, cô đã kịp chuyển tài liệu bố phòng quân sự tại Bộ Tư lệnh Hải quân ra ngoài căn cứ để làm sơ đồ cho biệt động Sài Gòn tấn công.

Đêm về, trong ngôi nhà bề thế nằm giữa trung tâm thành đô, cô có thể nghe tiếng súng nổ và quan sát những nhánh quân đang di chuyển về phía dinh Độc Lập. Lực lượng mỏng, gặp phải trục trặc ban đầu, đội biệt động Sài Gòn ngay khi vừa tấn công đã gặp phải sự kháng cự quyết liệt.
"Tình quân dân, tình đồng chí lúc này là trên hết, vì có gì lạ đâu: cô và ông đều là người Việt, đều đang chiến đấu cho Nam Bắc một nhà!" - hơn 30 năm trước, Tám Thảo đã nghĩ như vậy về thủ trưởng Tư Cang của mình


Rạng sáng ngày mồng 1 Tết, địch được chi viện thêm lực lượng. Các chiến sĩ biệt động phải mở đường máu thoát ra ngoài và cố thủ tại một toà nhà còn đang xây dở. Cuộc chiến giằng co đến vài ngày. Đội biệt động của ta rơi vào tình cảnh nguy cấp. Khắp nơi, lính Cộng hoà bao vây kín cả trên trời dưới đất. Cả lính Mỹ và lính Đại Hàn tăng cường vây bủa.

“Suốt 2-3 ngày liền, hai anh em cứ nằm bò trên gác để theo dõi mà không thấy chiến sĩ nào thoát ra”. Tiếng súng trong toà nhà thì cứ ngày một thưa dần rồi yếu hẳn. Linh cảm thấy đồng đội đang gặp nguy hiểm, cô quyết định: chia lửa cùng anh em.

Nhìn quanh trong số những tên lính đang vây ráp, thấy có cả toán lính đánh thuê Đại Hàn, Tám Thảo giục anh Tư: Bắn!

Nhưng Tư Cang là chỉ huy lưới khi đó. Nhiệm vụ của ông là nằm vùng để chỉ huy và giúp đỡ nhà báo Phạm Xuân Ẩn chứ không phải chiến đấu trực tiếp. Hơn nữa, nếu bị lộ, không chỉ mình ông mà cả gia đình cô sẽ vào vòng tù tội, không chỉ cách mạng mất đi một cơ sở mà công sức gây dựng một lưới tình báo chui sâu leo cao trong lòng địch cả chục năm qua sẽ đổ sụp.

Ông băn khoăn ghê gớm. Nhưng Tám Thảo một mực giục ông: “Sao anh nỡ nhìn đồng đội mình chết? Mọi chuyện em sẽ lo, anh cứ bắn đi”.

Thế rồi, trước máu của đồng đội và nước mắt của cô, người anh hùng có tài bắn hai tay hai súng giương cao khẩu K54. “Đoàng, đoàng!” Hai phát đầu tiên, một tên chỉ huy Mỹ, một tên chỉ huy Đại Hàn ngã gục.

Phản xạ như chớp, Tám Thảo chạy nhanh xuống dưới tầng, chôn luôn mấy viên đạn còn lại cùng 2 vỏ đạn vào đống rác để đề phòng lính kéo đến lục lọi. Xong xuôi, cô cũng kéo luôn ông xuống nhà, giấu ông vào phía sau căn gác xép chứa đầy vải vóc, nơi để tài sản buôn bán của gia đình.

Còn tụi lính, ngay khi nghe tiếng súng nổ, đã hô lên ầm ĩ “có Việt cộng”. Chúng chia người bủa vây khắp nơi, đập cửa nhà cô ầm ầm. Trời tối, cô vừa giả bộ tìm chìa khoá để kéo dài thời gian, vừa nghĩ nhanh cách ứng phó với tụi lính.

Tới khi chúng xộc vào trong thì ba cô cũng đã gọi tất cả 8 người dậy, lấy nước mời chúng uống. Nhìn phong cách gia đình lịch thiệp, lại thêm các cô gái trẻ đẹp, tên chỉ huy bắt đầu hạ giọng. Nhưng chúng vẫn toả đi sục sạo khắp góc nhà. Vừa tìm, chúng vừa quát hỏi để “nắn gân” mọi người.

Nhìn thấy mẹ cô, tên chỉ huy quát lớn: “Bà già, sao lại mặc đồ trắng thế kia?” (vì ngày đó các cụ hay mặc đồ đen). Mẹ cô - do đã chuẩn bị tinh thần từ trước - nên từ tốn trả lời: “Tôi không biết nữa, thích thì mặc t hôi”. Nghe câu trả lời không chút bối rối, tên chỉ huy cười bảo: “Tôi giỡn bà già đó” rồi lại tiếp tục ngó nghiêng.

Chỉ đến khi nhìn thấy ảnh ông thiếu tá Mỹ rất đẹp trai mà cô treo đầu giường, hắn mới thật sự hạ nhiệt: “Ủa, ai đây vậy cô?”. “Sếp tôi đó”. Chỉ trong một giây, cô thoáng thấy vẻ bối rối ngại ngần của hắn. Nhìn quanh quất lấy lệ cho xong, tên chỉ huy xin lỗi rồi rút quân về.

Suốt từ năm 1966, trong ngôi nhà tư sản toàn tiểu thư xinh đẹp, có một ông nông dân chính hiệu ra vào. Với gia đình cô, chưa bao giờ Tư Cang là người lạ, dù cho lối sống đã quen kham khổ của ông rất khác xa với gia đình - Ảnh chụp tại tư gia Tám Thảo tháng 4/2007

Chỉ đến khi toán lính rút đi, cô mới nhận ra rằng, mình vừa đi qua cõi chết. Sau một hồi im ắng, ông Tư Cang từ trong nơi ẩn nấp bước ra, nghẹn ngào cảm ơn cô cứu mạng. Cô cầm tay ông rồi cứ thế oà khóc.

Bây giờ cô mới thực sự hiểu: Làm tình báo đâu phải bước đi trên nhung hoa, đâu giống như tiểu thuyết mà cô đọc đầu đời. Làm tình báo không bao giờ được mắc lỗi. Nhưng sẽ bi kịch thế nào khi phải nhìn đồng đội chết trước mắt mà không được nổ súng, nhìn đồng bào bị tra tấn dã man mà không được rơi lệ? Trong phút lâm nguy nhất, bản năng sống và tự vệ đã giúp cô đối đầu được cả toán biệt kích lăm lăm súng đạn.

Mấy ngày sau, cô đưa ông Tư Cang về căn cứ. Đối diện với nhà cô là nhà một tên chỉ điểm. Những ngày Tư Cang tá túc tại đây, hắn biết thừa cái “anh rể Tư” chỉ là vỏ bọc. Nhưng kỳ lạ ở chỗ, biết gia đình cô che chở cho cán bộ cách mạng, hắn cũng không tố cáo bao giờ. Có thời nhà hắn khó khăn chật vật nhất, gia đình cô vẫn thương tình giúp đỡ, cho mượn 100.000 để giúp vợ chồng làm ăn.

Sau này, khi đã dư dả, sống thêm bằng lương chỉ điểm, nhưng hắn vẫn luôn tôn trọng gia đình. Một người hàng xóm của cô có con rể làm đại úy cảnh sát, sau ngày giải phóng, cũng nói lại: “Tao biết hết việc làm của tụi bay nghe. Đứa này đi Nam, đứa kia về Bắc, nhưng tao có nói gì hết đâu”.

Mỗi lần nghe vậy, cô đều xúc động.

Trong chiến tranh nhân dân, nếu không có những người đồng bào thương yêu và kính nể mình thật sự, liệu cô có còn sống sót? Liệu ông Tư Cang có hoàn thành nhiệm vụ? Liệu Phạm Xuân Ẩn có trở thành anh hùng? Và liệu dân tộc này có thể giành chiến thắng

Thứ Hai, 20 tháng 8, 2007

Huyền thoại về Cụm tình báo H.63 anh hùng

Kỳ 4: Mỹ nhân của cố vấn Hải quân Mỹ!

(VietNamNet) - Năm 1966, theo yêu cầu của tổ chức, chiến sĩ tình báo Tư Cang - chỉ huy lưới H.63 - được điều vào nội thành hoạt động. Lúc này, gia đình Tám Thảo là sự lựa chọn số một bởi bình phong quá an toàn. Cũng trong năm này, Tám Thảo được lệnh dừng làm liên lạc cho Hai Trung bởi công việc ngày càng phức tạp. Thay vào đó, cô phải tập trung học tiếng Anh, kiếm tấm bằng loại ưu để xin vào làm việc cùng người Mỹ.

>> Kỳ 3: Đồng đội, duyên phận và những ám ảnh cuộc đời>> Kỳ 2: Tiểu thư Thành đô sống như... tiểu thuyết>> Kỳ 1: "Hoa trong tuyến lửa"

Đi vào “cửa tử”

Với vẻ đẹp sang trọng, thông minh và vỏ bọc gia đình giàu có, cô lần lượt vượt qua những vòng thử thách khó khăn, thậm chí cả “chạy tiền” cho sĩ quan cấp dưới, để lọt được vào vị trí phiên dịch cho thiếu tá Tình báo Hải quân Mỹ, cố vấn của Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hoà.

Trong mắt lính Cộng hoà, Mỹ Nhung là kiểu con nhà giàu đi làm để kiếm chồng quan toLúc này, nhiệm vụ của cô đã bắt đầu chuyển sang giai đoạn khác. Hàng ngày, cô đến sở, dịch tài liệu ngược xuôi về tin tức tình báo hải quân cho “sếp”. Đến khi Đảng yêu cầu lấy tài liệu ra, để tránh nghi ngờ, nếu tài liệu bằng tiếng Việt thì cô lại dịch sang tiếng Anh rồi mang về nhà cho ông Tư Cang... dịch lại.

Thỉnh thoảng, thời gian cần kíp, cô “cầm tạm” luôn tài liệu về nhà vào đúng giờ nghỉ trưa để cho anh Tư trên lầu chụp. Đến khi phiên làm việc chiều bắt đầu thì tài liệu cũng đã nằm gọn gàng trở lại. Nhiều lúc, gặp những tài liệu không thể mang về, cô buộc phải tự nhớ trong đầu rồi về tóm lược cho chỉ huy lưới.

Cô hoạt động trong suốt thời gian dài mà không để lại một mảy may nghi ngờ nào. Thậm chí, có lần mải nói chuyện say sưa, cô còn sơ ý hỏi viên chỉ huy: “ủa, sao đồng chí nói vậy?”. Cũng may, anh chàng tưởng cô nhại “giọng Việt Cộng” để bông lơn nên không thèm để ý.

Nhiều lần, thấy cô giải thích vanh vách thế nào là “ở trong R” (ở trong rừng, cách gọi của trung ương đầu não), tụi Mỹ rất ngạc nhiên, hỏi “sao cô như Việt Cộng vậy”? Cô thản nhiên trả lời: “Các ông coi kẻ thù là Việt Cộng, tôi làm việc cho các ông thì tôi phải nghiên cứu giùm các ông chứ”.

Tuy nhiên, bên cạnh cái vẻ phớt Ăng-lê như thế, cô vẫn luôn phải thận trọng để giữ kín bình phong. Thỉnh thoảng, cô còn đi du lịch trong và ngoài nước, khi thật khi giả, để tránh sự nghi ngờ của địch mỗi lúc có chuyện phải vào rừng đột xuất.

Thậm chí, cô còn được ngưỡng mộ là người... chịu chơi, bởi lương tháng có 800 đồng mà dám chi vài ngàn chỉ để đi nghỉ ở Pháp.

Vì lẽ đó, trong mắt lính Cộng hoà, cô là kiểu con nhà giàu đi làm để kiếm chồng quan to, còn trong mắt bà con hàng xóm, cô là kiểu phụ nữ ôm chân Mỹ mơ giấc mộng nhà lầu. Cô biết vậy mà chẳng cần thanh minh, thậm chí còn tỏ ra rất “chảnh” để giữ an toàn.

Chỉ đến khi nào còn lại một mình với ba, cô mới thoả lòng khóc và kể cho ba nghe những gì còn ấm ức, bởi chỉ có ba cô là người thương và hiểu cô nhất.

Quyền năng của người đẹp

Làm việc ngay trong lòng địch, sơ hở một phút là chết liền, thế nên nguyên tắc đầu tiên của cô là phải sống thật. “Nếu không sống thật thì mình sẽ chết thật”. Chính vì thế, không ít lần cô đập bàn, nổi nóng, thậm chí giang tay tát thẳng vào mặt tên sĩ quan chỉ vì dám nói năng sàm sỡ.

Trong mắt bà con hàng xóm, cô là kiểu phụ nữ ôm chân Mỹ mơ giấc mộng nhà lầu
Cô kể, hồi sau Mậu Thân, có viên sĩ quan Mỹ mới sang nên sợ Việt Cộng lắm. Anh ta dò hỏi ông trung tá trưởng phòng là sao cô giống Việt Cộng vậy, bởi thấy cô nói năng chẳng ra vẻ sợ gì? Ông trung tá gạt phắt ngay: “Trời, tính cô vậy đó, nào có sợ ai. Gia đình cô ấy giàu lắm, đâu cần tiền”. Thế rồi, ông ta tuôn ngay một kỷ niệm “kinh hoàng” về người đẹp.

Bữa đó, ông ta kêu cô làm thêm giờ, nhưng cô không làm. Cô bảo: “Tôi phải về chơi, nghỉ ngơi với gia đình”. Nói kiểu gì cô cũng không nghe, ông trung tá giận lắm, vỗ bàn đánh đốp một cái, quát lên: “Đi làm có thêm tiền, tại sao cô không đi?”.

Cũng không vừa, cô đứng phắt dậy, đập bàn đánh đốp thêm cái nữa, rắn rỏi trả lời: “Ông có ngày chủ nhật của ông, tôi cũng có ngày chủ nhật của tôi. Tôi không cần tiền thêm giờ của ông, tôi cần thời gian ở với ba mẹ”.

Sợ quá, ông trung tá im liền. “Bà chằn này chịu chơi như vậy, không bao giờ có thể là Việt Cộng đâu”.

Bận khác, một viên trung sĩ coi bảng lương vốn ghen ghét cô vì thấy người đẹp cứ đi chơi hoài mà vẫn được sếp cưng, thậm chí có hôm 9 giờ cô mới tới. Hôm nào mà cửa hàng đông khách, cô còn nghỉ tít luôn ở nhà để giúp mẹ.

Phải chấm công nên anh chàng ức lắm, một hôm chờ đến buổi giao ban mới hất hàm hỏi: “Nè, giờ giấc của cô thế nào đó? Tại sao 9 giờ chưa có mặt, 12 giờ đã thấy mất tiêu. 3 giờ chiều mới thèm tới sở?”.

Cô thản nhiên trả lời: “Sao anh hỏi tôi? Tôi đi thông dịch cho sếp, anh muốn biết thì hỏi sếp tôi đó”. Nói rồi cô quay đi, biết chắc rằng viên trung sĩ chẳng bao giờ dám mở miệng hỏi quan thầy Mỹ. Mà cho dù hắn có hỏi thì cô cũng chắc chắn sếp sẽ bênh cô, bởi cô biết tính ông ta, chỉ cần làm hiệu quả chứ đâu ngồi tính thời gian.

Dần dần, cô càng củng cố hình ảnh về mình: một tiểu thư nhà giàu, đi làm chỉ vì mê Mỹ và thích khoe sắc khoe tài mà thôi. Ai biết đâu rằng, những ngày nghỉ cô không thèm làm thêm là để dành thời gian ra căn cứ, còn những lúc đi muộn về sớm là khi cô phải làm nhiệm vụ đột xuất, hoặc chờ cho người chỉ huy Tư Cang sao chép hết tài liệu để gửi đi cho kịp giờ.

Còn viên trung sĩ, nuôi cơn ấm ức trong thời gian dài, có bữa mới quyết định “trả đũa”. Một hôm, cô phải chuyển một lá thư của sếp sang cho anh chàng. Thấy bàn anh ta để tùm lum bừa bộn, cô hỏi đặt đâu bây giờ.

Anh chàng mới học được non nửa “ngón nghề” của cô nên cũng ra bộ kênh lắm, đáp thọt lỏn “để thùng rác đó”. Lập tức, cô xé toẹt cái bao thơ ra rồi ném thẳng vào thùng rác, nói ngắn gọn: “Tui bỏ đó đó” rồi đóng cửa cái rầm.

Về phòng họp, cô tới gặp thẳng sếp, kể lại chuyện rồi nhẹ nhàng: “Tui xin lỗi, ông vừa ký chưa ráo mực mà tôi đã làm vậy là khiếm nhã”. Viên thiếu tá Mỹ vội xua tay: “Không sao đâu, cô làm vậy là rất đúng”.

Ở bàn bên kia, cô thư ký người Việt kéo vội cô ra góc, thì thầm: “Thôi chị ơi, em làm cho chị cái khác nha, lúc đó chị điên cái đầu hay sao?”. Cô trả lời: “Nó điên cái đầu chứ tao điên à?”. Viên thiếu tá biết cô vẫn đang giận nên xuống giọng: “Cô đừng bực, để đó tôi ký lại cho”.

Xong xuôi, cô lại đem thơ xuống, hỏi: “Bây giờ tôi để đâu?”. Anh ta chỉ tay lên bàn rồi thẽ thọt: “Cô để đâu cũng được”.

Huyền thoại về Cụm tình báo H.63 anh hùng:

Kỳ 3: Đồng đội, duyên phận và những ám ảnh cuộc đời

(VietNamNet) - Rời chiến khu, Mỹ Nhung về Sài Gòn, vừa giúp cha mẹ khôi phục cửa hàng, vừa làm căn cứ cho cách mạng. Tại đây, cô được chỉ huy giới thiệu với nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn (Hai Trung), trở thành học trò của ông, để rồi từ đó, khi ông mới từ Mỹ về, cô lại là người đưa ông trở lại với tổ chức. Tham gia vào lưới, Mỹ Nhung đổi tên thành Tám Thảo. Tình bạn, tình đồng đội gắn bó đã giúp cô vượt qua nhiều hiểm nguy để làm giao liên an toàn cho lưới H63, ngay giữa nội thành Sài Gòn.

>> Kỳ 2: Tiểu thư Thành đô sống như... tiểu thuyết>> Kỳ 1: "Hoa trong tuyến lửa"

Hai mối duyên không thành

Gia đình Tám Thảo và Hai Trung quen nhau từ sớm. Biết nhau từ thuở ngoài 20 nên chị em cô gắn bó với Hai Trung rất sâu sắc. Ông vừa là chỉ huy của chị em Mỹ Nhung - Mỹ Linh, vừa là thầy dạy Anh văn, lại vừa là người anh lớn.


Mỹ Nhung về Sài Gòn, cô được chỉ huy giới thiệu với nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn (Hai Trung), trở thành học trò của ông, để rồi từ đó, khi ông mới từ Mỹ về, cô lại là người đưa ông trở lại với tổ chức - Sau một thời gian “thầy Hai Trung” hướng dẫn, chị em cô nói tiếng Anh rất khá, đặc biệt là cô em Mỹ Linh. Chính vì thế, để phục vụ cho cách mạng lâu dài, tổ chức từng định đưa Mỹ Linh đi học ở Anh, còn Hai Trung đi học ở Mỹ. Nhưng thời gian xa cách 4-5 năm khiến Hai Trung hơi ngại ngần.

Năm 1957, trước khi quyết định sang Mỹ, Hai Trung còn tìm đến nhà Mỹ Nhung để xin ý kiến ba cô, bởi ba cô cũng là người rất có ảnh hưởng tới Hai Trung. Chẳng rõ ông đến có phải để mong chờ một ánh mắt nào không, chỉ biết rằng đã có thời, sự thân thiết của ông với gia đình đã khiến cho người chỉ huy Mười Hương phải gợi ý: Nếu được thì cứ làm... rể gia đình luôn.

“Tôi biết anh Ẩn thương em Mỹ Linh lắm, nhưng Mỹ Linh không chịu”, cô nhớ lại. Cô bé kế sau của cô muốn được vào chiến khu, tự mình đóng góp cho cách mạng chứ không muốn trở thành cái bóng của bất kỳ ai.

Sau này, khi đã trở thành ký giả nổi tiếng, ông Ẩn vẫn thường xuyên đến thăm gia đình Mỹ Nhung dưới vỏ bọc là đi... tán các tiểu thư trong nhà, vừa để giao tài liệu, vừa có thêm bạn chuyện trò.

Thế nên duyên chị chưa trọn thì lại kéo theo duyên em không thành. Kế sau Mỹ Linh là cô Lan. “Bé Lan thì thương anh Ẩn dữ, vì anh là người tốt, lịch thiệp mà lại giản dị, chẳng bao giờ tính toán tiền nong”. Nhưng ngày đó Lan còn quá nhỏ, Hai Trung chỉ thương như em gái mà thôi.

Năm 1962, Mỹ Linh vào rừng, trực tiếp làm người dịch tài liệu cho căn cứ miền. Cô được đổi tên thành Chín Chi, bởi chị cô - Mỹ Nhung - đã được đổi tên thành Tám Thảo.

Cũng trong năm đó, Hai Trung lập gia đình. Lan buồn lắm, nhưng dẫu mỗi người mỗi nơi thì tình cảm của ông với gia đình vẫn còn nguyên vẹn.

Người đẹp trên tuyến lửa

Năm 1960, trước khi phong trào Đồng khởi bắt đầu, trung ương yêu cầu cục tình báo tìm hiểu các chiến lược đối phó của địch để đề phòng bất trắc. Lệnh được truyền đi, ở trong nội thành, Hai Trung nhanh chóng tìm ra tài liệu và chụp thành 20 cuộn phim, giao cho Tám Thảo.

Tha thướt trong tà áo dài, Tám Thảo bắt xe ra ngoại thành chuyển tài liệu. Ở đó, cô liên lạc được với bà Bảy Huê – cũng là con một nhà tư sản nổi tiếng. Hành trình của cô không quá dài, nhưng để vượt được quãng đường nhỏ từ nội thành ra ngoại ô thì thực sự khủng khiếp.

Lần nào, đi đâu, cô cũng đều phải vượt qua chỗ bót canh của lính. “Tôi rất sợ cái chỗ đó, vì đã đi qua thì chết là chuyện bình thường”.

Nỗi nguy hiểm để có thể chết chính là ở chỗ, nơi cô tới toàn những nhà nông dân, mà theo lệ thường thì nông dân chỉ mặc áo bà ba. Một mình cô, áo dài tóc vấn, ra giữa chốn đồng không mông quạnh, hẳn phải có vấn đề. Cô cũng có thể mặc áo bà ba, nhưng dáng vẻ của cô thì lại đài các quá, dùng không hợp.

Hơn thế nữa, nếu mặc bà ba ra khỏi thành thì khi về cô sẽ khó trở lại, bởi tiểu thư Sài Gòn trở về từ ngoại ô trong chiếc áo bà ba thì có nghĩa là sao? Vậy nên mỗi lần đi liên lạc, cô lại trở thành tâm điểm dò xét của tụi lính. “Nếu mất bình tĩnh là chết như chơi”. Nhưng trí thông mình và khuôn mặt thánh thiện đã giúp cô nhiều lần thoát chết.

Suốt từ năm 1960 đến năm 1966, cô đi lại như con thoi từ Sài Gòn xuống Củ Chi, Hoóc Môn, Phú Hòa Đông, Tây Ninh rồi lại về thành phố. Những tài liệu mà cô chuyển ra đều do Hai Trung khéo léo lấy từ trong lòng địch, như tài liệu về những kế hoạch đối phó trước các cuộc tấn công của ta, tài liệu của Mỹ hướng dẫn cho quân đội Cộng hoà về kỹ thuật và thủ thuật chống nổi loạn, tài liệu liên quan đến Chiến tranh Cục bộ năm 1965...

Có lần, trên chuyến xe đò đi ra cứ, cô cùng tất cả hành khách bị chặn lại ngay tại bót canh. Nhanh trí, Tám Thảo tự tách khỏi đoàn người đang phải khám xét tùm lum, chạy ra đứng nói chuyện với viên chỉ huy cao nhất.

Chuyện trên trời dưới biển, chuyện văn chương thi phú, chuyện về “người dì tư sản” ở ngoài mà cô phải đến thăm khiến cho viên chỉ huy cứ phải cười ngoác miệng. Thế là, trong khi cả chiếc xe bị lục soát tứ tung thì cô cùng chiếc giỏ tài liệu lủng lẳng trên tay lại an toàn tuyệt đối, ngay bên cạnh... viên chỉ huy tít mắt cười. Đến khi lục soát xong xuôi, tụi lính cho xe lên đường, cô cũng nói lời tạm biệt.

Nhưng chưa hết, bỗng nhiên ngay lúc ấy, một tên lính gọi giật lại: “Ủa, cô kia, xét chưa?” Cô mỉm cười rất tươi, quay sang viên chỉ huy bảo: “Chưa, nói chuyện với anh vui làm tôi quên khuấy mất. Anh xét đi!” Nói rồi, cô thẳng tay chìa cái giỏ hàng “chết người” về phía chúng. Viên chỉ huy vội xua tay lắp bắp: “Thôi, cô lên xe đi. Cô đi đường cẩn thận đó”.

Vẫn bình tĩnh nở thêm một nụ cười tạm biệt, cô nhẹ nhàng bước lên xe, tiếp tục cuộc hành trình ngàn cân treo sợi tóc. Cô biết, đằng sau cô là rất nhiều chiếc xe đang chờ xét. Nếu cứ lục soát kỹ, tụi lính cũng oải vì lấy đâu ra thời gian. Hơn nữa, làm cái nghề “cú vọ” này, bà con trên xe ai chẳng ghét. Cô hiểu điều đó nên căn giờ “buôn chuyện” chính xác và tỉnh táo đến mức không để lại chút nghi ngờ.

Biết mình thông minh nhưng cô cũng không dám đùa với “lửa”, bởi trong tay cô không chỉ là tính mạng của mình mà còn là số phận của cả gia đình, của “anh Ẩn” và của những người khác. Vì thế, những lần sau đó, cô đã rút kinh nghiệm hơn.

Mỗi khi lên xe “thăm bà dì”, theo lời khuyên của chỉ huy và cả... ông chủ xe đò, cô không bao giờ chọn ngồi ghế đầu nữa. Đến khi qua trạm gác, cô cũng đều ý tứ... quay mặt đi, nếu không, theo lời các ông, “thấy cô đẹp quá, tụi lính bắt dừng xe lại để... hỏi han thì phiền”.

Ám ảnh một ánh mắt

Một lần, đích thân ông Ẩn lái xe đưa cô ra ngoài Củ Chi. Trước khi chuyển sang chiếc xe khác để về căn cứ, cô ngoái lại chào tạm biệt người đồng đội chu đáo ấy. Bất ngờ, lần đầu tiên trong đời, cô bắt gặp cái nhìn của ông đầy day dứt. Nỗi băn khoăn về đôi mắt khó tả đó vẫn ám ảnh cô cho đến tận bây giờ.

Với ông, có những điều cô không bao giờ hỏi, và với cô, có những điều ông cũng không ba o giờ nói. Nguyên tắc nghề nghiệp khiến cho những người bạn, người đồng chí chỉ có thể giao tiếp với nhau bằng linh cảm.

Hôm nay đây, khi ông đã qua đời, mang theo cả bí mật của đôi mắt để trở về với đất, nhưng mấy ai biết rằng, trong cả cuộc đời làm nên những kỳ tích như huyền thoại, đã bao lần ông phải đối mặt với phút giây ân hận với chính mình. Đồng đội của ông – Tám Thảo, Tư Cang, Ba Già, Hai Thương... – chưa bao giờ sợ bước chân vào cõi chết, họ hiên ngang đối mặt với họng súng thù để giữ gìn mạng sống cho ông và cho dân tộc.

Trong những dòng tự thuật về “khuyết điểm” của mình sau này, ông cũng đã tự “sỉ vả” mình không ngớt: chỉ vì không tính toán nên Hai Trung cứ để nguyên phim chưa tráng cồng kềnh, hay đưa hàng chục trang tài liệu cồm cộm không xử lý ra chiến khu, gây biết bao nguy hiểm cho anh chị em giao thông.

Đi giữa hai làn sống chết mong manh, chỉ một chút sơ suất thôi là một con người, thậm chí là một gia đình, phải đổ máu.
Vì lẽ đó, mỗi khi đứng trước những đồng đội của mình, người anh hùng vĩ đại luôn thấy mình quá bé nhỏ. Ông hiểu, chính những dáng người mảnh mai đang đi về tuyến lửa kia mới là những người làm nên chữ “anh hùng” trên ngực áo của con người được phong là “huyền thoại”.